Haèng thuaän chuùng sanh
Tuyø hyû coâng ñöùc

tinhdo.edu.vn

KINH TỨ THẬP HOA NGHIÊM PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN, CHƯƠNG CÁT TƯỜNG VÂN TỲ KHEO GIẢNG GIẢI - TẬP BA

KINH TỨ THẬP HOA NGHIÊM

PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN,

CHƯƠNG CÁT TƯỜNG VÂN TỲ KHEO

GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP BA
 

Xin giở cuốn Kinh, trang thứ sáu.

Xin đọc Kinh Văn trong trang thứ sáu:

Khi ấy, Tỳ Kheo Cát Tường Vân bảo Thiện Tài rằng: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ông đã phát tâm vô thượng, chánh đẳng, chánh giác, đấy là chuyện khó. Lại còn có thể thưa hỏi hành Bồ Tát hạnh, đấy là chuyện khó nhất trong những chuyện khó.

Kinh Văn từ chỗ này trở đi là lời thiện hữu tán thán và truyền dạy pháp môn. Đáp ứng lời khải thỉnh của Thiện Tài, trước khi truyền pháp, thiện tri thức nhất định phải tán thán Thiện Tài. Nói thật ra, lời tán thán này cũng nhằm để khuyến khích, khích lệ mọi người chúng ta, mà cũng là lời căn dặn Thiện Tài phải tự trân trọng.

Bởi lẽ, phát tâm quá khó, nhất là sau khi đã phát tâm lại còn chịu ham học. Đấy là hai sự khó khăn mà Ngài đều có thể trọn đủ. Đấy mới đáng gọi là pháp khí trong Phật Môn, có năng lực, có đủ điều kiện để tiếp nhận sự truyền pháp của thiện tri thức.

A Nậu Đa La Tam Miệu Tam bồ đề trong phần trước, tôi đã giảng quá nhiều rồi, tuy giảng rất nhiều, nhưng trong Bộ Kinh này, câu này được lặp lại mấy trăm lượt. Mỗi một lần tham học trong năm mươi ba lần tham học, chúng ta đều có thể thấy câu này đôi ba lượt, đủ thấy câu này vô cùng trọng yếu.

Ở chỗ này, Đức Thế Tôn không ngừng nhắc nhở chúng ta: Cái tâm ấy quả thật khó phát. Tuy đã phát được, nhưng chỉ trong chớp mắt lại quên tuốt, phát đó, quên đó, đấy gọi là lộ thủy đạo tâm đạo tâm như nước trong một giọt sương, chẳng đáng coi là pháp khí. Cũng có thể nói là không có năng lực, không đủ điều kiện để tiếp nhận đại pháp của Như Lai.

Đấy là sự thật. Nếu là người thật sự phát đạo tâm, thân tâm cảnh giới của người ấy có thể nói là sẽ đại chuyển biến 180 độ. Chúng ta phát tâm mà tâm thái của chúng ta chẳng chuyển biến gì hết. Hễ thật sự phát tâm thì sẽ chuyển biến liền.

Vì sao nói người ấy có sự chuyển biến lớn lao như vậy?

Là vì phàm phu và Thánh Nhân sai biệt chỉ trong một ý niệm này. Ý niệm đã chuyển thì tướng mạo sẽ chuyển. Ý niệm đã chuyển thì thể chất sẽ chuyển, cảnh giới cũng đồng thời xoay chuyển, đấy là đạo lý nhất định.

Trong Kinh Luận, Đức Phật thường dạy chúng ta: Cảnh tùy tâm chuyển cảnh chuyển theo tâm. Dung mạo, thể chất của chúng ta đều thuộc về cảnh. Hễ phát bồ đề tâm thì không còn là phàm phu nữa. Từ Kinh Điển chúng ta thấy rằng tiểu thừa A La Hán, Bích Chi Phật đều không phát bồ đề tâm, Quyền giáo Bồ Tát cũng chẳng thể phát bồ đề tâm.

Thế nhưng quý vị phải hiểu rõ một điều: Người niệm Phật nếu không phát bồ đề tâm sẽ chẳng thể vãng sanh. Chúng ta phải đặc biệt lưu ý điểm này.

Quý vị thấy Tam Bối vãng sanh Ba bậc vãng sanh trong Vô Lượng Thọ Kinh, điều kiện vãng sanh đều giống hệt như nhau: Phát bồ đề tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật. Thượng bối có điều kiện này, mà trung bối, hạ bối vẫn có điều kiện này. Chúng ta chẳng thể coi thường.

Vậy thì thế nào là phát bồ đề tâm?

Muốn nói rõ ra sẽ rất khó, hễ nói thì rất khó thể nào nói cho rõ ràng, muốn nghe cho hiểu, muốn nghe cho hiểu rõ rệt, đương nhiên cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Vậy thì vì sao rất nhiều người chẳng hiểu giáo lý nhưng niệm A Di Đà Phật vẫn được vãng sanh?

Giống như Pháp Sư Đàm Hư đã kể cho chúng ta nghe: Một đồ đệ của Pháp Sư Đế Nhàn khi Pháp Sư còn trẻ, xuất thân là thợ vá nồi, một chữ cũng không biết, niệm Phật được ba bốn năm, đứng vãng sanh. Ông ta sống trong một ngôi Miếu nhỏ trong làng.

Có người báo tin cho Cụ Đế Nhàn, nói: Đồ đệ của thầy đã đứng vãng sanh rồi. Ngày hôm sau, Lão nhân gia mới ngồi thuyền, từ Kim Sơn ngồi thuyền đến Ôn Châu cũng mất hai ba ngày. Đồ đệ của Sư vẫn đứng sừng sững hai ba ngày đợi sư phụ đến lo liệu hậu sự.

Nếu chúng ta hỏi: Ông ta có phát bồ đề tâm hay chăng?

Có phát.

Vì chẳng phát bồ đề tâm, làm sao có thể vãng sanh?

Nếu quý vị hỏi ông ta: Bồ đề tâm là gì?

Ông ta không biết, ông ta chẳng hiểu bồ đề tâm là cái gì. Nhưng ông ta thật sự phát bồ đề tâm. bồ đề tâm là tâm triệt để giác ngộ.

Ông ta giác ngộ điều gì?

giác ngộ cõi nhân gian khổ sở. Hồi còn sống, ông ta là kẻ rất khổ não, cuộc sống hết sức vất vả, đối với thế gian này trọn chẳng lưu luyến mảy may nào, một tí ti vướng mắc cũng đều chẳng có, nhất tâm nhất ý mong ngóng sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Đấy là bồ đề tâm.

Chúng ta làm được hay chăng?

Đích thực là chúng ta vướng mắc quá nhiều chuyện, do vậy, tâm chúng ta chẳng phải là bồ đề tâm, còn tâm ông ta thật sự là bồ đề tâm. Tâm ông ta thanh tịnh, tất cả những ô nhiễm trong thế gian này ông ta đều chẳng có.

Lão Hòa Thượng dạy ông ta một câu Nam Mô A Di Đà Phật, điều gì cũng đều không giảng giải, bảo ông ta: Ông cứ thật thà niệm, niệm mệt bèn nghỉ, nghỉ khỏe khoắn xong lại niệm. Cứ niệm miết như thế, chớ nên xen tạp, đừng hoài nghi, đừng nên gián đoạn.

Ba điều kiện ấy ông ta đều làm được. Không gián đoạn là ông ta niệm mệt bèn nghỉ, điều này không kể, điều này không tính là gián đoạn, ông ta nghỉ ngơi thôi mà. Hễ tỉnh giấc lại niệm tiếp A Di Đà Phật. Đấy là không gián đoạn.

Chứ không phải là bảo ông ta đêm ngày không nghỉ ngơi, điều này người bình thường chẳng thể làm được đâu. Mệt rồi thì nghỉ ngơi, nghỉ ngơi khỏe khoắn xong lại niệm. Do ông ta thật sự làm được, phát bồ đề tâm, một mực chuyên niệm, đây là tấm gương vô cùng tốt cho chúng ta.

Một câu Phật hiệu niệm đến cùng cực, thời gian trọn chẳng dài cho lắm, ba bốn năm liền biết trước lúc mất, đứng sững vãng sanh. Người như vậy rất hiếm có, phát tâm khó lắm.

Sau khi phát tâm lại chịu thật sự làm, người thợ vá nồi ấy hằng ngày niệm Phật, niệm mệt bèn nghỉ, nghỉ khỏe rồi lại niệm, đấy chính là hành Bồ Tát hạnh, khó khăn nhất trong những sự khó. Ông ta không ra khỏi cửa, giống như người ta thường nói là bế quan vậy.

Ông ta không thật sự bế quan, chúng ta thường gọi là phương tiện quan. Nói cho đúng, ông ta không ra khỏi cửa lớn, một mình ở trong một ngôi miếu nát, thật thà niệm một câu A Di Đà Phật, ông ta thành công. Ông ta thành tựu trọn chẳng kém những vị thiện tri thức pháp thân Đại Sĩ trong năm mươi ba lần tham học này.

Thật đấy. Một người căn tánh hạ hạ tu hành đúng theo lời dạy, trong thời gian ba bốn năm liền biến thành thượng thượng nhân. Nếu chúng ta từ đây mà giác ngộ, từ chỗ này mà hiểu rõ thì cũng kể như là quý vị phát bồ đề tâm, quý vị thật sự giác ngộ rồi đấy.

Do đó, giác ngộ khó khăn lắm. Sau khi giác ngộ, nhất định phải buông xuống. Nếu như quý vị nghĩ tôi giác ngộ rồi, tôi phát tâm rồi, nhưng vẫn còn có vướng mắc chưa buông xuống được. Nói thật ra, quý vị đang tự mình dối gạt mình, quý vị chưa hề giác ngộ.

Vì sao vậy?

Hễ giác ngộ nhất định sẽ buông xuống, còn có mảy may nào không buông xuống được thì hiển nhiên là quý vị chưa giác ngộ, điều này khẩn yếu lắm.

Do vậy, phải hiểu tướng trạng, hình dạng của giác ngộ cho rõ ràng, chính mình phải chú tâm kiểm điểm, phản tỉnh, quán sát xem có phải là giác ngộ thật sự hay chưa. Giác ngộ rồi bèn khởi tu, ngộ rồi phải hành, do vậy lại phải thưa hỏi hành Bồ Tát hạnh, khó khăn là đây.

Ở đây có ba câu chú thích ngắn gọn, giảng rõ Tỳ Kheo Cát Tường Vân vì sao khen ngợi Thiện Tài. Dụng ý của Ngài là bảo Thiện Tài hãy tự gìn giữ cho chắc chắn, tự mình phải trân trọng, quý tiếc, phải giữ vững tín nguyện của chính mình.

Vui vẻ nghe pháp thù thắng. Hướng về thiện hữu thỉnh giáo, hoan hỷ lắng nghe, tu học pháp môn thù thắng. Do vậy trong đoạn văn này, nửa đoạn trước giảng rõ hai thứ khó khăn Thiện Tài đều trọn đủ, đều khắc phục được. Đối với người thông thường mà nói thì hai thứ khó khăn này sẽ ngăn trở người ấy khai ngộ, chướng ngại người ấy tu hành.

Vì sao ngày nay chúng ta nghe pháp, xem Kinh chẳng thể khai ngộ, công phu tu hành chẳng thể đắc lực?

Là vì không khắc phục được hai thứ khó khăn ấy. Nếu hai thứ khó khăn ấy đều khắc phục được thì hiện tượng ấy sẽ không còn nữa, chúng ta nghe Kinh sẽ khai ngộ, công phu sẽ đắc lực. Phần Kinh Văn tiếp theo gồm có mười câu.

Vì thế, Đại Sư Thanh Lương Chú Giải rằng: Kinh Văn có mười câu. Mười câu này nhằm nói lên hành Bồ Tát hạnh khó khăn. Sự khó khăn trong hành Bồ Tát hạnh chẳng phải chỉ nói một vài điều là xong.

Chuyện khó khăn quá ư là nhiều. Mười câu này vẫn là nói quy nạp, đem những nỗi khó khăn phân loại, quy nạp thành mười loại lớn. Mười câu này là mười loại lớn. Chúng ta hãy đọc Kinh Văn một lượt.

Sở vị cần cầu Bồ Tát đạo, cần cầu Bồ Tát cảnh giới, cần cầu Bồ Tát quảng bác tịnh hạnh, cần cầu Bồ Tát xuất hiện thần biến, cần cầu Bồ Tát thị hiện quảng đại chư giải thoát môn, cần cầu Bồ Tát thị hiện thế gian chủng chủng tác nghiệp, cần cầu Bồ Tát tùy thuận chúng sanh chủng chủng tâm hạnh, cần cầu Bồ Tát thị hiện nhập xuất sanh tử Niết Bàn, cần cầu Bồ Tát ư vi vô vi tâm vô sở trước, cần cầu Bồ Tát trừ đoạn chúng sanh chủng chủng phiền não vi tế quá thất.

Chính là nói: Siêng cầu Bồ Tát đạo, siêng cầu cảnh giới Bồ Tát, siêng cầu tịnh hạnh rộng lớn của Bồ Tát, siêng cầu Bồ Tát xuất hiện thần thông biến hóa, siêng cầu Bồ Tát thị hiện các môn giải thoát rộng lớn, siêng cầu Bồ Tát thị hiện các thứ tác nghiệp thế gian, siêng cầu Bồ Tát tùy thuận các thứ tâm hạnh của chúng sanh, siêng cầu Bồ Tát thị hiện vào ra sanh tử, Niết Bàn, siêng cầu Bồ Tát đối với hữu vi hay vô vi tâm đều không chấp trước, siêng cầu Bồ Tát trừ dứt các thứ phiền não, lỗi lầm vi tế của chúng sanh.

Thiện hữu nói cho Thiện Tài biết mười thứ khó khăn trong Bồ Tát hạnh. Đây là Tỳ Kheo Cát Tường Vân truyền dạy pháp môn cho Thiện Tài. Câu thứ nhất là nói tổng quát, chín câu sau là nói riêng biệt. Quý vị đọc lời Chú Giải của Đại Sư Thanh Lương, đọc Kinh Văn xong, chúng ta hãy xem lời Chú Giải. Ngài Chú Giải rất rõ ràng, mỗi một câu đều nói rõ ra.

Từ sau chữ sở vị trở đi ở vị là chữ được dùng trong Kinh Văn, tức sở vị cần cầu Bồ Tát đạo. Từ đoạn Kinh Văn này trở đi. Riêng nhắc lại những câu hỏi trong phần trước.

Sau khi Thiện Tài đã nêu ra những câu hỏi để thỉnh giáo, theo thói quen thông thường, chúng ta nhất định phải nhắc lại những câu hỏi một lượt để đối chiếu xem có phải là quý vị nêu ra những ý nghĩa này hay không, rồi mới trả lời quý vị để tránh trường hợp quý vị nêu câu hỏi xong, người trả lời nghe rồi lại hiểu lầm ý, đáp sai câu hỏi, lãng phí thời gian.

Do vậy, nhất định phải nhắc lại một lượt những câu quý vị đã hỏi, vì vậy, thiện tri thức lặp lại câu hỏi của Thiện Tài.

Để giải thích những điều khó khăn sẽ được nói tới trong phần sau. Thị thích hậu nan là lời giải thích câu thưa hỏi hành Bồ Tát hạnh là sự khó nhất trong những sự khó, giải thích câu nói này.  Kinh Văn gồm mười câu, trong ấy có chỗ tách ra, có chỗ gom lại đôi chút.

Kinh Văn tổng cộng có mười câu, trong ấy có chỗ khai, có chỗ hợp. Hợp là quy nạp hai hay ba vấn đề thành một. Khai là đối với một vấn đề, do có quá nhiều ý nghĩa trong ấy bèn tách ra thành hai hoặc ba. Nhưng khai, hợp không nhiều cho nên nói tiểu hữu khai hợp.

Dựa theo thứ tự, nhắc lại những câu hỏi trong phần trước. Chiếu theo thứ tự thuận, đem những câu hỏi của Thiện Tài trong phần trước nhắc lại một lượt.

Câu thứ nhất là: Ứng với hai câu hỏi tổng quát trong phần trước, dù học hay tu đều là Bồ Tát đạo.

Đây là câu hỏi của Thiện Tài Đồng Tử: Làm thế nào để học Bồ Tát đạo, làm thế nào để tu Bồ Tát đạo?

Học là giải môn, tu là hạnh môn. Giải hạnh tương ứng, Giải lẫn hạnh đều coi trọng, đều thuộc về Bồ Tát đạo. Do vậy, khi trả lời Thiện Tài, Tỳ Kheo Cát Tường Vân đem hai câu hỏi trong phần trước gộp lại thành một câu. Do vậy nói siêng cầu Bồ Tát đạo.

Trong mỗi một câu đều có bốn chữ cần cầu Bồ Tát siêng cầu Bồ Tát, nhằm nêu rõ những gì được nói ra hoàn toàn thuộc về Bồ Tát đạo.

Chín câu kia tương ứng những câu hỏi riêng biệt. Những câu khác là nói riêng, còn câu đầu tiên là nói tổng quát.

Một, siêng cầu cảnh giới Bồ Tát chính là đoạn Kinh Văn trong phần trước khởi Bồ Tát hạnh, phát khởi, tiến hướng đến cảnh Bồ Tát. Chúng ta gộp chung đoạn văn trước và sau lại để xem, lại đọc lời Chú Giải của Đại Sư Thanh Lương thì ý nghĩa hết sức rõ ràng.

Trong phần trước Thiện Tài đã hỏi số trang của tôi khác với số trang trong sách của quý vị, Ngài đã từng hỏi: Học Bồ Tát hạnh như thế nào?

Tu Bồ Tát hạnh như thế nào?

Khởi Bồ Tát hạnh như thế nào?

Hành Bồ Tát hạnh như thế nào?

Cho đến làm thế nào để mau chóng viên mãn Phổ Hiền hạnh?

Trong phần trước tôi đã từng nói với quý vị, trong khi phiên dịch, các vị dịch giả đã lược bớt những câu hỏi này. Bởi lẽ, trong phần trước, Ngài đã nêu ra tổng cộng mười ba câu hỏi. Đối với câu khởi Bồ Tát hạnh của Thiện Tài thì câu cần cầu Bồ Tát hạnh của Tỳ Kheo Cát Tường Vân là giảng về khởi Bồ Tát hạnh.

Khởi nghĩa là phát khởi, hưng khởi dấy lên, tức là phát khởi tiến hướng đến cảnh Bồ Tát. Chúng ta nói đến cảnh giới, nói thật ra, đấy là những điều nhỏ nhặt, vụn vặt trong cuộc sống hằng ngày.

Làm thế nào mới có thể giống như Bồ Tát, sống như Bồ Tát?

Vấn đề này rất trọng yếu, chẳng thể không lưu ý. Vì vậy tu hành là tu trong sinh hoạt thường ngày.

Hai, siêng cầu tịnh hạnh rộng lớn của Bồ Tát. Một câu này… bao gồm cả ba câu trước. Đây là chỗ Hợp. Trong phần trước, Thiện Tài có ba câu hỏi, ở đây hợp lại thành một câu. Chữ nhiếp có nghĩa là hợp lại. Nghĩa là chữ hạnh bao gồm hành Bồ Tát hạnh trong phần trước.

Quảng bác bao gồm viên mãn trọn khắp Bồ Tát hạnh trong phần trước. Tịnh bao gồm tịnh Bồ Tát hạnh trong phần trước. Cho thấy trong một câu này bao gồm ba câu hỏi của Thiện Tài trong phần trước. Ở đây, thiện hữu quy nạp thành một câu để trả lời. Bản dịch cũ có đủ ba điều này.

Chữ cựu Kinh chỉ bản dịch Kinh Hoa Nghiêm đời Tấn tức bản Lục Thập Hoa Nghiêm.

Một, chính là đạo xuất ly, tức là Hạnh đã nói trong phần trước, vì Hạnh chính là thoát ra vậy.

Bốn chữ hành Bồ Tát hạnh, chúng ta nay đang hành phàm phu hạnh, Bồ Tát khác phàm phu, mà Bồ Tát được nói ở đây cũng khác với Bồ Tát thường được nhắc đến, sai khác ở chỗ nào?

Thông thường, chúng ta nói tới Bồ Tát thì trong số ấy bao gồm quyền, Tiểu Bồ Tát. Nếu dựa theo giáo tướng của Tông Thiên Thai để nói thì lại có tạng giáo Bồ Tát, thông giáo Bồ Tát, Biệt Giáo Bồ Tát, đều chưa thoát khỏi mười pháp giới.

Nhưng Bồ Tát được nói tới ở đây là những vị Bồ Tát đã vượt thoát mười pháp giới, Kinh Hoa Nghiêm nói tới bốn mươi mốt địa vị pháp thân Đại Sĩ.

Thiện Tài đến tham học với một vị thiện tri thức là vì như trong phần trước tôi đã thưa với quý vị rồi đó, Ngài liền khế nhập cảnh giới ấy. Ví dụ như ở đây, Tỳ Kheo Cát Tường Vân đại diện cho hàng Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo.

Do vậy, Thiện Tài Đồng Tử đến tham phỏng Tỳ Kheo Cát Tường Vân, cho thấy Thiện Tài Đồng Tử cũng là bậc Sơ trụ trong Viên giáo. Sơ trụ của Viên giáo bằng với Sơ địa trong Biệt giáo, đã vượt trỗi mười pháp giới, đã chứng nhập nhất chân pháp giới. Kinh Đại tiểu thừa thường gọi là nhập bất nhị pháp môn.

Ngài đã nhập pháp môn bất nhị, nhị là gì?

Trong mười pháp giới là hai, chữ nhị biểu thị phân biệt. Trong mười pháp giới có phân biệt, trong nhất chân pháp giới không có phân biệt, đấy là không hai. Nay Ngài là Sơ trụ Bồ Tát, hạnh được hỏi ở đây là hạnh của bậc Bồ Tát từ Sơ trụ trở lên.

Do vậy, ở đây nói đến xuất: Hạnh tức xuất cố hạnh chính là xuất, xuất là ra khỏi mười pháp giới. Chẳng những thoát lìa lục đạo, mà còn thoát lìa mười pháp giới.

Nói một cách khác, trong nhất chân pháp giới có những vị Bồ Tát, họ sống như thế nào?

Hành Bồ Tát hạnh mang ý nghĩa như thế đấy.

Muốn thưa hỏi những vị pháp thân Đại Sĩ, bọn họ hành Bồ Tát hạnh như thế nào?

Đấy là ý nghĩa thứ hai. Thanh tịnh đạo tức là tịnh như đã nói trong phần trước. Trong bản dịch cũ gọi tịnh là thanh tịnh đạo. Tôi nghĩ ý nghĩa này chắc quý vị cũng dễ hiểu hơn.

Trong tựa đề của Vô Lượng Thọ Kinh ghi thanh tịnh, bình đẳng, giác, mong mọi người hãy đặc biệt chú ý tới, tâm phải thanh tịnh, chuyện gì cũng đều chẳng thể có. Chẳng những thế pháp pháp thế gian không thể có, mà Phật Pháp cũng không thể có, hễ có sẽ chẳng thể thoát khỏi lục đạo được.

Chúng ta là người niệm A Di Đà Phật, chỉ chấp nhận có A Di Đà Phật, trong tâm quý vị, một ngày mười hai thời từ sáng đến tối, chỉ chấp nhận có A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, chẳng thể có gì khác.

Nếu quý vị muốn thật sự có thì quý vị phải nhớ kỹ, quý vị không thể ra khỏi lục đạo luân hồi được đâu. Có A Di Đà Phật thì được. Cảm ứng đạo giao với Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, gọi là đới nghiệp vãng sanh.

Quý vị thấy họ mang theo nghiệp gì?

Mang theo những nghiệp chẳng khởi tác dụng. Họ chưa đoạn được nghiệp, chưa đoạn phiền não tập khí, tuy chưa đoạn nhưng đều chẳng khởi tác dụng. Họ suốt một ngày từ sáng đến tối là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, tất cả những nghiệp của họ đều chẳng khởi tác dụng, bị một câu A Di Đà Phật nén xuống, khuất phục.

Kinh Kim Cang chép: Vân hà hàng phục kỳ tâm?

Làm thế nào để hàng phục cái tâm ấy?

Chúng ta đem một câu A Di Đà Phật hàng phục cái tâm, đấy gọi là đới nghiệp vãng sanh. Tuyệt đối chẳng phải là một mặt niệm. Phật, mặt khác vẫn sanh phiền não, vẫn là khởi tâm động niệm, như vậy là vô dụng. Nói trắng ra, một câu Phật hiệu của quý vị không đắc lực, không đè nén vọng tưởng, tạp niệm được, đấy là không đắc lực.

Vì sao không đè nén vọng tưởng, tạp niệm được?

Do quý vị không buông xuống, quý vị không thật sự cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, không sanh tâm chân thật, không bỏ được tình duyên thế gian, làm sao đi được?

Do vậy, ở đây, tôi đặc biệt muốn khuyến khích các vị đồng tu chúng ta: Quán Trưởng vãng sanh đã ban cho chúng ta một sự khải thị rất lớn. Nói cách khác, bà đã ban cho chúng ta một bài học trọng yếu nhất.

Bà cảnh tỉnh chúng ta: vãng sanh nhất định phải đứng mà đi, phải ngồi mà đi, đừng sanh bệnh, biết trước lúc mất thì bản thân quý vị mới có thể nắm vững, mới thật sự vãng sanh.

Nếu ngã bệnh nằm trên giường, ngay cả sức lực để tự trở mình cũng không có, hoàn toàn là nghe theo người khác sắp đặt, hy vọng vãng sanh rất mờ mịt.

Trong khi ấy, nếu quý vị không gặp được thiện hữu giúp đỡ sẽ chẳng thể vãng sanh. Thiện hữu thật sự hiểu biết những kiến thức thông thường trong thời điểm khẩn yếu ấy, thời thời khắc khắc nhắc nhở người sắp mất giữ chánh niệm, chánh niệm là buông xuống hết thảy, hết thảy mọi chuyện đều không quan tâm tới, hết thảy đều chẳng cần bận lòng nữa, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Thường xuyên nhắc nhở, thường xuyên căn dặn. Nếu không, người sắp mất ấy sẽ lúc thì thấy quỷ, lúc thì thấy thần, đấy chính là nghiệp lực trong lục đạo hiện tiền.

Quán Trưởng có phước báo, khi bà bịnh hơi nặng hơn, những người xuất gia chúng ta đều vây quanh bà, bảo vệ bà, được như vậy chẳng dễ dàng đâu.

Có mấy người gặp được cơ hội này?

Quý vị nghĩ thử xem, tương lai quý vị vãng sanh có gặp được duyên ấy hay chăng?

Quý vị gặp được duyên ấy thì không có vấn đề gì, bảo đảm đưa quý vị đi vãng sanh. Nhưng nếu quý vị chẳng gặp được duyên ấy thì hỏng rồi, hỏng mất rồi.

Chúng tôi nghĩ như thế này: Chúng ta có thể bảo vệ, đưa Quán Trưởng đi vãng sanh, tương lai bản thân chúng ta vãng sanh, ai sẽ bảo vệ đưa chúng ta đi?

Không nhờ cậy được. Do vậy, chỉ có chính mình thực sự làm, chính mình phải thật sự đứng mất, ngồi mất, không cần người ta giúp đỡ, chẳng phiền tới người khác, đấy mới là thật sự nắm chắc.

Đứng mất, ngồi mất, biết trước lúc mất, chúng ta có thể làm được hay không?

Thưa với quý vị, ai cũng đều có thể làm được. Chỉ cần quý vị thật sự buông xuống được, tâm quý vị niệm Phật thật sự khẩn thiết thì không có vấn đề gì cả.

Thông thường, nếu niệm Phật như thế, đạt đến cảnh giới ấy, công phu thành tựu nói chung ba năm là đủ rồi.

Quý vị đã niệm được ba năm rồi, niệm được ba mươi năm rồi, vì sao vẫn chẳng có tin tức gì?

Đấy là vì quý vị công phu không đắc lực, quý vị hoàn toàn không vứt bỏ được vọng tưởng, tạp niệm. Một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, cho nên công phu của quý vị không đắc lực. Nhất định phải chú ý tới điều này, con người trong sát na lâm chung, trong sát na hơi thở dứt bặt, chính là thời khắc quyết định tương lai người ấy sẽ đi vào đường nào.

Trong sát na ấy, một câu A Di Đà Phật thì người ấy liền vãng sanh. Trong Vô Lượng Thọ Kinh, nguyện thứ mười tám là lâm chung mười niệm hay một niệm, nhất định vãng sanh Thế Giới Cực Lạc.

Cho nên một niệm tối hậu ấy là quyết định, là mấu chốt. Lúc bình thường là luyện binh, khi lâm chung là chiến đấu, hy vọng một niệm tối hậu là A Di Đà Phật, chứ không phải là tạp niệm hay những lời thừa thãi.

Thông thường, người ta mất đi đều có thân trung ấm. Tôi nghĩ quý vị có thân thích, bằng hữu, người già qua đời, quý vị đến tiễn đưa, rõ ràng là đã từng trông thấy. Người ấy đã tắt hơi rồi, chúng ta đứng bên cạnh người ấy niệm Phật, niệm tới tám tiếng đồng hồ, khuôn mặt người ấy sẽ hiện vẻ biến đổi.

Tuy người ấy không nói năng được, nhưng nếu quý vị quan sát cẩn thận những biểu hiện trên khuôn mặt người ấy: Nếu người ấy đau đớn, có giằng co gì thì quý vị chú tâm quán sát sẽ thấy có dấu tích. Sau khi thần thức hoàn toàn rời đi, người ấy có thể khôi phục lại dáng vẻ bình thường, đấy là có trung ấm.

Trong Kinh dạy thần thức tách rời thân thể giống như con rùa bị bóc mai trong khi còn sống, rất đau khổ. Do vậy khi người ấy sắp mất, quyết chớ nên đụng chạm vào người ấy. Chúng ta thường nói là tám tiếng đồng hồ, nhưng theo sách Sức Chung Tân Lương dạy thì là mười hai tiếng. Mười hai tiếng là an toàn nhất.

Người ấy đã hoàn toàn rời lìa xác thân, quý vị có thể đụng chạm, sờ mó, không có vấn đề chi hết. Trong vòng mười hai tiếng đồng hồ, chớ nên chạm vào.

Chẳng những không được chạm vào thân thể, mà còn có kẻ vô tri, nghe Kinh nói nếu ai được vãng sanh thì thần thức sẽ thoát ra từ đỉnh đầu, toàn thân đều lạnh, đến cuối cùng đỉnh đầu vẫn còn có chút hơi nóng, muốn sờ vào để thăm dò người mất ấy sẽ đi về đâu?

Thăm dò như vậy sẽ lôi người ấy trở lại, lại đưa người ấy vào trong tam ác đạo. Người thăm dò là oán gia trái chủ của người mất, những người hộ niệm phải chấn chỉnh người ấy, quyết định chẳng được đụng chạm.

Thăm dò để làm gì cơ chứ?

Không cần thiết. Thực ra, khi đứng bên cạnh lắng lòng quán sát thì sẽ có thể phán đoán được. Lâm chung ra đi không có trung ấm, hết sức hiếm có.

Tôi cũng đã đưa tiễn không ít người, lúc lâm chung không có trung ấm thì chỉ có mình Quán Trưởng, tôi chỉ thấy có mình bà ta là không có trung ấm.

Ấy là vừa tắt thở liền vãng sanh, phù hợp với điều được dạy trong Kinh, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới không có trung ấm. Thêm nữa, người sanh lên Trời cũng không có trung ấm, người Cõi Trời phước báo lớn nên chẳng qua giai đoạn trung ấm.

Lại còn một loại là đọa vào địa ngục cũng không có trung ấm, đấy là địa ngục Vô gián, vừa tắt thở liền đọa ngay, nhưng người ấy lộ vẻ rất hoảng sợ, tướng trạng rất khó coi. Nhưng tướng ấy không hề có biến hóa.

Kinh Điển dạy chúng ta rằng: Trong ba thứ tình huống ấy thì không có trung ấm, còn những trường hợp khác đều có trung ấm. Do vậy, nếu chúng ta không việc gì thì phải đọc sách Sức Chung Tu Tri những điều cần biết về việc hộ niệm cho lúc lâm chung cho nhiều, không gì quan trọng bằng hiểu rõ kiến thức này.

Chúng ta hiểu rõ rồi, tánh cảnh giác của chúng ta mới cao, vì sao vậy?

Mỗi cá nhân đến lúc cuối cùng đều phải trải qua giai đoạn này.

Đến lúc ấy, nếu như có oán thân trái chủ đến bên cạnh rờ rẫm, thăm dò, làm cách nào đây?

Không có biện pháp nào ngăn ngừa được, cho nên lúc bình thường phải thật thà niệm thì mới an toàn. Nhưng trong niệm Phật Luận, chúng ta đã cho in rất nhiều bản niệm Phật Luận, cuốn sách này do lão Pháp Sư Đàm Hư giảng, Pháp Sư Đại Quang ghi lại. Hai tháng trước đây, Pháp Sư Đại Quang đã vãng sanh. Chúng tôi cũng rất thân quen với thầy ấy, cũng là bạn cũ của nhau.

Năm nay, thầy ấy cũng phải ngoài tám mươi tuổi rồi. Những người được nói tới trong phần sau cuốn niệm Phật Luận toàn là phàm phu, đều là kẻ bình thường. Người xuất gia như Pháp Sư Tu Vô tại Chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân Harbin, chúng tôi đọc xong bèn mong được đến thăm Chùa Cực Lạc. Pháp Sư Tu Vô vãng sanh tại nơi ấy, biết trước lúc mất, ngồi mất.

Vị Pháp Sư ấy xuất gia cũng là người khổ não, trước khi xuất gia làm thợ nề, không biết chữ, chỉ biết niệm một câu A Di Đà Phật, chuyện gì cũng không biết, là người chất phác. Người chất phác niệm Phật bèn thật thà niệm, chúng ta không chất phác nên niệm Phật cũng không thật thà. Các quý vị thấy Ngài ra đi thong dong, tự tại như thế đó.

Cư Sĩ Trịnh Tích Tân là người buôn bán. Nghe lão Pháp Sư Đàm Hư giảng Kinh Di Đà, biết Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tốt lành, ông ta giác ngộ liền, không buôn bán nữa, chuyên môn niệm Phật, chuyên môn giảng Kinh Di Đà, đến các nơi giảng Kinh Di Đà cho người ta nghe, khuyên người khác niệm Phật.

Khi ông ta mất là biết trước lúc mất, không đổ bệnh, ngồi qua đời. Trong truyện ấy còn kể kèm thêm truyện của người em trai ông ta.

Em trai ông ta thoạt đầu không tin tưởng, trách móc người anh nghỉ buôn bán, bỏ đi niệm Phật, chê anh mê tín, học Phật đến nỗi mê muội luôn. Về sau, thấy anh mình ra đi tự tại như vậy ông ta bèn tin tưởng, ông ta cũng niệm Phật. Niệm được ba năm cũng vãng sanh. Chẳng qua ông ta vãng sanh còn mắc chút bệnh khổ, không được thong dong như anh mình, nhưng kể như là có công phu.

Tại Chùa Trạm Sơn ở Thanh Đảo có một vị nữ đồng tu họ Trương cũng là người khổ não. Chồng bà ta là phu kéo xe, xe kéo hiện thời không còn nữa.

Rất khổ. Cu li mà. Bà ta có hai đứa con nhỏ, một nhà bốn miệng ăn. Ngày nào chồng bà ta không kéo xe thì ngày đó không có cơm ăn, sống khổ sở như vậy. Mỗi Chủ Nhật, Chùa Trạm Sơn có hội niệm Phật, bà ta đều tham gia.

Bà niệm rất thành tâm, khi vãng sanh biết trước lúc mất, ngồi qua đời. Chúng ta thấy những người ấy đều là người khổ não, bởi lẽ họ khổ quá cho nên đối với thế gian này chẳng lưu luyến gì nữa.

Vì sao ngày nay chúng ta không thành công?

Có một chút của cải đã hại chết quý vị rồi. Cuộc sống của quý vị vẫn còn khá, quý vị lưu luyến thế gian này, quý vị không buông xuống được.

Bọn họ một ngày không làm là một ngày không có cơm ăn, chẳng biết ngày mai sẽ sống bằng cách nào?

Đối với thế gian này trọn chẳng có mảy may lưu luyến gì. Nghe nói Tây Phương Thế Giới tốt lành liền nhất tâm nhất ý cầu sanh.

Ý niệm cầu sanh khẩn thiết, chân thật, triệt để buông thế gian này xuống, thật sự phù hợp với điều Kinh đã giảng: phát bồ đề tâm, một mực chuyên niệm. Do vậy, tâm họ thanh tịnh. Đừng thấy người ta sống khổ sở, tuy cuộc sống khổ sở như thế nhưng tâm họ thanh tịnh. Kẻ làm quan lớn trong thế gian, đại phát tài đều thua họ. Tâm họ thanh tịnh, công phu niệm Phật đắc lực, đấy là những tấm gương cho chúng ta, chúng ta phải nên học tập theo đấy.

Học bằng cách nào?

Xả. Không xả là không được. Xả phiền não, xả sanh tử, xả lục đạo, xả bệnh khổ, chẳng được lưu luyến mảy may nào, sanh tử là chuyện lớn mà.

Vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đều không có cách nào thoát lìa lục đạo luân hồi, đều không có cách gì liễu sanh tử, lần này gặp được cơ hội này, gặp được Kinh Điển này, gặp được pháp môn này, chỗ mấu chốt trong hiện thời là chúng ta có buông xuống được hay không?

Hễ có thể buông xuống được, chiếu theo Kinh Luận, phương pháp này để tu hành thì chắc chắn sẽ thành tựu. Do vậy, thanh tịnh đạo là trọng yếu.

Ý nghĩa thứ ba là: Tâm thanh tịnh rộng lớn. Đây là ý nghĩa đầy đủ trọn khắp đã nói trong phần trước. Tâm chẳng những phải thanh tịnh mà còn phải rộng lớn, phải giống như Phật, Bồ Tát. Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới tâm bao thái hư, lượng trọn khắp các cõi có số lượng nhiều như cát. Phải có cái tâm ấy.

Có cái tâm như vậy sẽ tự nhiên trên cúng dường Chư Phật, dưới hóa độ chúng sanh, không phân biệt, không chấp trước, không thấy thân sơ, tâm đại từ bi tự nhiên lưu lộ.

Câu này bao gồm nội dung của ba câu trong số mười ba câu hỏi nơi phần trước. Từ đây trở đi, mỗi câu trả lời đều nhằm ăn khớp với những câu hỏi trong phần trước. Chúng ta xem câu thứ ba trong lời Chú Giải.

Điều thứ ba chính là chuyển biến như trong phần trước đã nói, vì hạnh bồ đề cũng chuyển biến. Kinh Văn ghi cần cầu Bồ Tát xuất hiện thần biến siêng cầu Bồ Tát xuất hiện thần thông biến hóa, chữ thần biến ấy có nghĩa là chuyển.

Vì sao có chuyển biến?

Nói thật ra, biến hóa rất nhiều. Chuyển biến to lớn như trong Phẩm Phổ Môn đã nói nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy.

Đấy là chuyện lớn lao. Trong những chuyện nhỏ nhặt thường ngày, tùy theo thói quen sinh sống của chúng sanh, tùy thuận ý thức, hình thái của chúng sanh, tùy thuận hết thảy lòng ưa ghét của chúng sanh mà Bồ Tát qua lại với họ, cũng thường chuyển biến ở trong ấy.

Những điều ấy đều gọi là thần biến. Như vậy mới có thể hóa độ chúng sanh, cùng hòa quang đồng trần với chúng sanh, nay chúng ta gọi là cơ hội giáo dục, tùy thời tùy chỗ vận dụng cơ hội giáo dục khéo léo thì đều thuộc về chuyển biến.

Điều thứ bốn là thâm nhập. Tức siêng cầu Bồ Tát thị hiện các môn giải thoát rộng lớn. Vì thâm nhập môn giải thoát rộng lớn.

Môn là nói tỷ dụ, tỷ dụ sự ra vào, ra vào đều theo cái cửa ấy. Ở đây nói ra tam giới, vào tam giới, ra mười pháp giới, vào mười pháp giới, tỷ dụ như vậy. Quảng đại giải thoát môn là ra khỏi mười pháp giới thì mới là quảng đại.

Giải thoát môn được nói đến trong tiểu thừa chỉ là thoát lìa lục đạo luân hồi liền coi là giải thoát rồi. Chữ Giải là Phá Âm Tự đọc giọng Khứ Thanh, đừng đọc là jiě, hãy đọc là xiè, nên coi chữ này được dùng như động từ, mang ý nghĩa cởi gỡ ra.

Cởi gỡ những gì?

Phiền não, giải trừ kiến tư phiền não. Thoát là thoát lìa lục đạo luân hồi. Nếu quý vị chẳng giải trừ được kiến tư phiền não sẽ không ra khỏi lục đạo luân hồi. Do vậy, giải thoát gồm hai chuyện. Đại giải thoát môn ở đây chẳng những là giải trừ kiến tư phiền não mà trần sa phiền não cũng giải trừ, vô minh phiền não cũng phải tối thiểu giải trừ được một phần.

Như trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói: Bốn mươi mốt phẩm vô minh phá được một phẩm thì mới thoát lìa mười pháp giới, nhập nhất chân pháp giới. Đấy gọi là đại giải thoát, quảng đại giải thoát.

Quảng là khen ngợi nó lớn lao, bởi lẽ khi ấy đã minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Thâm nhập quảng đại ý nghĩa càng sâu, bởi lẽ vô minh có bốn mươi mốt phẩm, nay quý vị mới phá được một phẩm, vẫn chưa thể thâm nhập. Bốn mươi mốt phẩm vô minh phá sạch rồi, chứng được Phật Quả rốt ráo trong Viên giáo, mới gọi là thâm nhập quảng đại giải thoát môn.

Thiện Tài Đồng Tử mong cầu, nguyện vọng cao cả, chẳng phải là đạt đến giai đoạn này bèn được chút ít đã cho là đủ, Ngài không hề như vậy. Ngài hy vọng thành tựu viên mãn giống hệt như Chư Phật Như Lai. Đấy là ý nghĩa của câu thứ bốn.

Câu thứ năm là xuất sanh:Tức câu cần cầu Bồ Tát thị hiện thế gian chủng chủng tác nghiệp siêng cầu Bồ Tát thị hiện các thứ công việc thế gian. Thì các thứ tác nghiệp mới có thể sanh ra được. Đây là ý nghĩa xuất sanh.

Vậy thì Bồ Tát có sự nghiệp hay không?

Có chứ. Ở đây, chúng ta thấy năm mươi ba vị thiện tri thức nhìn trên hình tướng có nam, nữ, già, trẻ, nhìn từ công việc, bao gồm các ngành, các nghề.

Thật sự, Thế Tôn dùng bọn họ để tượng trưng cho xã hội của chúng ta trong hiện thời. Chúng ta từ sáng đến tối lục căn tiếp xúc cảnh giới, người, sự, vật, các thứ công việc, luôn có Bồ Tát thị hiện trong ấy. Họ phải làm, họ chẳng thể không làm.

Chẳng những phải làm, mà như chúng tôi thường nói trong các buổi giảng: Họ phải nêu một tấm gương tốt đẹp nhất cho hết thảy mọi người. Quý vị là học trò, Bồ Tát cũng làm học trò, nhưng Bồ Tát là học trò ưu tú nhất, phẩm hạnh lẫn học vấn đều nổi bật, là tấm gương tốt nhất cho bọn học trò. quý vị làm thương nhân, Bồ Tát cũng làm thương nhân.

Trong giới con buôn, Bồ Tát nêu gương tốt nhất cho lũ con buôn, gương tốt ấy chính là giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm.

Do vậy, bất luận trong nghề nghiệp nào cũng đều làm gương mẫu cho nghề nghiệp ấy, đều là điển hình cho nghề nghiệp ấy. Nếu là bà chủ trong gia đình, Bồ Tát cũng nêu một tấm gương tốt về bà chủ trong gia đình, nêu khuôn mẫu.

Chư Phật Như Lai nêu gương tốt cho Bồ Tát, Bồ Tát học theo Phật, nêu gương tốt cho hết thảy chúng sanh. Siêng cầu Bồ Tát thị hiện các thứ công việc trong thế gian là Bồ Tát đạo, chứ không phải là phàm phu.

Câu kế tiếp đó: Cần cầu Bồ Tát tùy thuận chúng sanh chủng chủng tâm hạnh siêng cầu Bồ Tát tùy thuận các thứ tâm hạnh của chúng sanh, đấy chính là quán sát.

Vì quán sát thấy tâm hạnh của chúng sanh khác biệt. Tâm hạnh ở đây chính là khởi tâm động niệm như chúng ta thường gọi. Bồ Tát phải quán sát chúng sanh khởi tâm động niệm đủ mọi thứ khác nhau.

Vì sao khác nhau?

Nhân duyên trong ấy rất phức tạp.

Nếu Bồ Tát chẳng quán sát cặn kẽ, thâm nhập quán sát thì làm sao có thể giáo hóa chúng sanh cho khế cơ được?

Nhất định phải hiểu tâm hạnh của chúng sanh rồi mới giảng Kinh thuyết pháp, câu nào cũng nói trúng phóc tâm trạng của họ, họ mới có thể cảm nhận. Do vậy, điều này rất trọng yếu.

Trong Kinh đã dạy rất hay.

Quán sát không phải là bảo quý vị nghiên cứu, chẳng phải là bảo quý vị điều tra, chẳng phải là bảo quý vị hãy thống kê, chẳng hề bảo quý vị làm những chuyện đó.

Quán sát phải có định huệ, nói cách khác, nếu tâm chính mình không thanh tịnh, quý vị chẳng có cách nào chiếu soi cảnh giới bên ngoài. Do vậy, tâm phải thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ tràn trề trí huệ, có vậy thì mới có thể chiếu soi tâm hạnh của hết thảy chúng sanh.

Vì vậy, trong quá khứ, các vị Tổ Sư, Đại Đức giảng Kinh thuyết pháp, lên đại tòa. Trước khi thăng đại tòa sẽ có nghi quy, tức là có nghi thức: Xướng tán, lễ bái, Tụng Kinh, niệm chú, đại khái trong thời gian trước khi giảng, tối thiểu phải là nửa tiếng, cử hành nghi thức rất long trọng, hiện thời chúng tôi đều giản lược hết.

Hiện thời chúng tôi chỉ lễ Phật ba lạy, mọi người xướng bài Khai Kinh Kệ, chúng tôi liền lên đài giảng Kinh. Xưa kia chẳng giống như vậy, trước khi giảng Kinh thì tối thiểu là phải nửa tiếng đồng hồ.

Sau khi Pháp Sư thăng tòa, trong nửa tiếng ấy sẽ làm gì?

Nhập định. Mục đích nhập định để xem xét căn cơ, ở đây gọi là quán sát, nhập định để xem xét căn cơ. Nếu không thể nhập định thì cũng là để cho cái tâm định lại, tĩnh lại.

Do vậy, đối với Pháp Sư mà nói thì Ngài nhập định quán sát căn cơ, còn về phía đại chúng mà nói thì cũng là chờ những người đến sau, tức những người không thể canh thời gian đến đúng lúc. Vì thời gian nửa tiếng ấy là để chờ những người tới chậm, đấy cũng là lòng từ bi.

Xã hội hiện tại khác hẳn với trước kia. Trước kia là xã hội nông nghiệp, mọi người đều có thời gian rảnh rỗi, chờ đợi không sao cả.

Nghi thức long trọng thì đối với mỗi một người có tâm nghe pháp cũng sẽ khởi lòng tôn trọng, vì thế cách này có điểm hay. Xã hội hiện thời đã khác xưa, mọi người rất quý thời gian, nói thật ra, đấy là điều đáng nên làm.

Thế nhưng bảo thời gian là tiền bạc thì ngay trong câu nói ấy cũng có nhiều vấn đề, vẫn là còn tham tiền tài, không buông xuống được. Nói theo phương diện Phật Pháp, thời gian là sanh mạng, là mạng quang, rất nghiêm túc. Thời gian là tiền bạc, đối với người chân chánh tu hành thì họ đã bỏ sạch tiền tài rồi, họ chẳng coi trọng thứ ấy.

Chúng ta cần phải hiểu điều này. Bởi lẽ, trong xã hội hiện thời toàn bộ nghi thức đều bị giản lược, mong sao thời gian chúng ta giảng Kinh sẽ có thể dài hơn một chút, giảng được nhiều hơn một chút, chẳng phụ lòng các vị đồng tu từ nơi xa đến nghe. Đấy chính là điểm khác biệt giữa hiện tại và quá khứ, nhưng công phu quán sát này vẫn hết sức trọng yếu.

Câu thứ bảy chính là mở rộng, vì hạnh đạo vô trụ thì mới tăng rộng được. Trong Kinh Văn, câu này được ghi là cần cầu Bồ Tát thị hiện nhập xuất sanh tử Niết Bàn siêng cầu Bồ Tát thị hiện ra vào sanh tử, Niết Bàn.

Ở đây Đại Sư Thanh Lương Chú Giải rất đơn giản, mà ý nghĩa rất viên mãn. Phải hành vô trụ đạo thì mới thực hiện được chuyện này, đây chính là tự tại trong sanh tử Niết Bàn, tự tại trong nơi ấy. Chúng ta thường gọi vị nào làm được điều này là thừa nguyện tái lai, vị ấy thật sự có năng lực thừa nguyện tái lai.

Phải như Kinh Kim Cang đã dạy: Trụ vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm không trụ vào đâu để sanh tâm thì mới được. Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư của Thiền Tông nhờ câu Kinh này mà khai ngộ. Ngài nhập vào cảnh giới ấy, cho nên Ngài thật sự là vô trụ sanh tâm.

Vô trụ là tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, Ngài nói: Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai vốn không có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần. Đấy là vô trụ, chẳng những trong tâm Ngài không có pháp thế gian mà Phật Pháp cũng không có.

Vì sao vậy?

Phật Pháp vẫn là pháp do nhân duyên sanh.

Kinh Kim Cang dạy: Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp?

Pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp. Phi pháp là pháp thế gian, pháp là Phật Pháp. Phật Pháp lẫn thế gian pháp đều chẳng trụ, chẳng trụ là không để vào lòng, tâm quý vị sạch sẽ, thanh tịnh.

Nhi sanh kỳ tâm, sanh tâm gì?

Tâm đại từ đại bi. Vì vậy, cái tâm ấy không phải là vắng lặng, Ngài vẫn còn có niệm, chứ không phải là vô niệm, đối với chính mình thì Ngài vô niệm, nhưng niệm niệm vì chúng sanh. Do vậy, Ngài sống bằng tấm lòng từ bi. Vô trụ và sanh tâm là một, không phải hai.

Đấy chính là pháp môn bất nhị. Bậc tiểu thừa vô trụ nhưng không sanh tâm, chẳng sanh khởi tâm từ bi. Phàm phu chúng ta hễ sanh tâm thì phải trụ, hễ sanh tâm ắt có trụ. Chỉ có Bồ Tát mới có thể vô trụ và sanh tâm đồng thời. Đấy là chỗ cao minh của họ. Vì thế, các vị ấy có thể tăng quảng.

Chúng ta hãy xem nhé:

Bản dịch cũ tức Lục Thập Hoa Nghiêm ghi là cầu sanh tử Niết Bàn môn, ý nói: Chẳng trụ Niết Bàn thì là sanh tử môn, chẳng trụ sanh tử thì là Niết Bàn môn. Niết Bàn là vô trụ, sanh tử là sanh tâm. vị ấy sanh tâm là vào trong lục đạo độ chúng sanh, đáng nên dùng thân nào để độ được bèn thị hiện thân ấy.

Giống như Quán Thế Âm Bồ Tát có ba mươi hai ứng thân, đáng nên dùng thân nào để độ được bèn thị hiện thân ấy. Tuy thị hiện thân, tâm Ngài thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, vì thế, luận theo phía Ngài thì Ngài trụ Niết Bàn, luận theo phía chúng sanh, Ngài trụ trong sanh tử.

Cả hai phía Ngài đều trụ, mà cũng có thể nói là cả hai phía Ngài đều chẳng trụ, bởi lẽ, chính Ngài đã trụ Niết Bàn nên Ngài không có sanh tử, Ngài trụ trong sanh tử, không trụ trong Niết Bàn, cả hai phía đều chẳng trụ. Vì thế gọi là đắc đại tự tại. Do vậy, chẳng trụ sanh tử tức Niết Bàn môn.

Cả hai đều chẳng trụ chính là ý nghĩa của chữ Xuất. Vượt thoát, chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong Niết Bàn. Do đều chẳng trụ. Hai bên đều chẳng trụ. Thì mới có thể đều cùng trụ. Trụ ở đây chính là ý nghĩa của chữ nhập. Nhập là thả chiếc bè từ, Ngài trụ vào cả hai bên.

Tôi vừa mới nói, đối với chính Ngài mà nói thì Ngài trụ trong Niết Bàn, đối với hết thảy chúng sanh để nói thì Ngài trụ trong sanh tử. Cả hai bên Ngài đều trụ, chẳng trụ mà trụ nên gọi là thị hiện. Đấy chính là sự thị hiện của Phật, Bồ Tát.

Câu thứ tám là thành tựu. Tức là câu cần cầu Bồ Tát ư vi vô vi tâm vô sở trước siêng cầu Bồ Tát đối với hữu vi và vô vi, tâm không chấp trước. Vi là pháp hữu vi, vô vi là pháp vô vi, Ngài đều chẳng trụ vào pháp hữu vi lẫn pháp vô vi. Hai bên đều chẳng trụ thì mới gọi là thành tựu.

Đối với hữu vi lẫn vô vi tâm đều không chấp trước, hạnh nào chẳng thành?

Do vậy, vị ấy có thể ở trong thế gian thị hiện các thứ thân phận, thị hiện các thứ việc làm nhằm nêu gương cho hết thảy chúng sanh, dạy hết thảy chúng sanh chẳng biến đổi cuộc sống hiện tại của quý vị.

Hiện thời quý vị đang sống như thế nào thì quý vị cứ sống như thế nấy, chẳng thay đổi công việc hiện tại của quý vị, chẳng thay đổi hoàn cảnh sống của quý vị, quý vị hành Bồ Tát đạo ngay trong ấy. Điều này hay tuyệt đến cùng cực. Siêu phàm nhập Thánh ở ngay trong ấy.

Quý vị muốn vượt thoát lục đạo luân hồi, quý vị muốn vượt thoát mười pháp giới thì vượt nơi đâu?

Vượt ngay trong cuộc sống hiện tại của chính mình, vượt thoát ngay trong công việc thường ngày hiện tại, quý vị thấy rất tự tại. Vị ấy nêu khuôn mẫu cho chúng ta, biểu diễn cho chúng ta xem.

Trong Kinh thường nói: Vì người khác diễn nói. Diễn là nêu gương cho người ta nhìn vào, thuyết là giảng giải. Do vậy, đấy là thành tựu thật sự. Cho nên Đức Thế Tôn nói trọn hết pháp vô tận, chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi.

Nơi hữu vi giới, chỉ bày pháp vô vi, trong vô vi giới chỉ bày pháp hữu vi.

Há có gì để chấp nữa ư?

Mấy câu Chú Giải này, khi tôi giảng Kinh Kim Cang vào năm ngoái, đã nói mấy câu này là toàn bộ ý nghĩa Kinh Kim Cang. Một Bộ Kinh Kim Cang từ đầu đến cuối đều nói mấy câu này.

Quý vị thấy đó, trong thuở Đức Phật thị hiện trong cõi đời, cuộc sống của Phật mỗi ngày là mặc y, trì bát, khất thực, trở về giảng Kinh thuyết pháp cho hàng đệ tử. Đấy chính là nêu gương cho người xuất gia.

Du hóa Mười Phương, không ở nhất định một chỗ nào. Địa phương nào có duyên bèn đến nơi ấy du hóa. Trong thuở ấy, quả thật học sinh luôn lấy thầy làm gương, học sinh Tại Gia, nam, nữ, già, trẻ, các ngành các nghề đều có, thân cận Đức Phật, nghe Phật thuyết pháp bèn giác ngộ, thực hiện sự nghiệp Bồ Tát trong công việc, trong nghề nghiệp của chính họ.

Kẻ buôn bán thì làm một vị Bồ Tát thương nhân, tôi vừa mới nói rồi đó. Học sinh thì làm một vị Bồ Tát học sinh. Nội trợ thì làm một vị Bồ Tát nội trợ, lắc mình biến một cái đều biến thành Bồ Tát hết. Phàm phu đều biến thành Bồ Tát, lục đạo đều biến thành nhất chân pháp giới, chẳng thể nghĩ bàn.

Vì thế, học Hoa Nghiêm nếu không hiểu đạo lý này, chẳng biết phương pháp này, sẽ không chuyển được cảnh giới, vậy là quý vị đã uổng công học rồi, quý vị chẳng thọ dụng được. Học rồi phải biết dùng, trở về nhà chuyển được cảnh giới liền. Ấy chính là vô trụ sanh tâm như Kinh Kim Cang đã nói.

Câu cuối cùng: Viên mãn. Tức câu cần cầu Bồ Tát trừ đoạn chúng sanh chủng chủng phiền não vi tế quá thất siêng cầu Bồ Tát trừ dứt các lỗi lầm vi tế phiền não của chúng sanh. Vì trừ được những lỗi lầm nhỏ nhặt của chúng sanh thì mới viên mãn. Đừng nói là không có lỗi lầm lớn, lỗi lầm nhỏ nhặt cũng đều không có. Đấy mới là đạt đến viên mãn.

Nếu chúng ta hỏi, do đâu mà có lỗi lầm?

Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nơi tự tánh thanh tịnh trong tâm vốn không có, không hề có ba món ấy. Do vậy, chúng là hư vọng.

Vì sao không gạt bỏ hư vọng ấy?

Thật ra, bỏ chẳng được. Hãy học theo những kẻ chất phác, trong mười hai thời chỉ có một câu Phật hiệu thì lỗi lầm nhỏ nhặt quý vị cũng không có nữa.

Suốt ngày từ sáng đến tối A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, nào còn có lỗi lầm gì?

Biện pháp ấy tốt đẹp cho nên đối với người thật thà niệm Phật lỗi lầm nhỏ nhặt cũng không có. Chúng ta đi theo con đường này, dễ đi, đã vừa hết sức ổn thỏa, thích đáng, vừa hết sức thiết thực, trong một thời gian ngắn sẽ có thể thành đạt to lớn.

A. Hôm nay, tôi giảng đến đây thôi.

A Di Đà Phật!

***