Haèng thuaän chuùng sanh
Tuyø hyû coâng ñöùc

tinhdo.edu.vn

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ YẾU GIẢI GIẢNG KÝ - TẬP HAI - A

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ  

YẾU GIẢI GIẢNG KÝ

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP HAI - A
 

3.2. BIỆN THỂ
 

Giải, đệ nhị, biện thể. Đại thừa Kinh giai dĩ thật tướng vi chánh thể. Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian, phi quá khứ, phi hiện tại, phi vị lai, phi thanh, hoàng, xích, bạch, trường, đoản, phương, viên, phi hương, phi vị, phi xúc, phi pháp, mịch chi liễu bất khả đắc, nhi bất khả ngôn kỳ vô.

Cụ tạo bách giới thiên như, nhi bất khả ngôn kỳ hữu. Ly nhất thiết duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn văn tự tướng, nhi duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự, phi ly thử, biệt hữu tự tánh. Yếu chi, ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp.

Ly cố, vô tướng. Tức cố, vô bất tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh thật tướng. Thật tướng chi thể, phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch. chiếu nhi tịch, cưỡng danh Thường tịch quang độ.

Tịch nhi chiếu, cưỡng danh thanh tịnh pháp thân. Hựu, chiếu tịch, cưỡng danh pháp thân. Tịch chiếu, cưỡng danh báo thân. Hựu, tánh đức tịch chiếu, danh pháp thân. Tu đức chiếu tịch, danh báo thân. Hựu tu đức chiếu tịch, danh thụ dụng thân.

Tu đức tịch chiếu, danh ứng hóa thân. Tịch chiếu bất nhị, thân độ bất nhị. Tánh tu bất nhị, chân ứng bất nhị, vô phi thật tướng. Thật tướng vô nhị, diệc vô bất nhị. Thị cố, cử thể tác y, tác chánh, tác pháp, tác báo, tác tự, tác tha.

Nãi chí năng thuyết, sở thuyết, năng độ, sở độ, năng tín, sở tín, năng nguyện, sở nguyện, năng trì, sở trì, năng sanh, sở sanh, năng tán, sở tán, vô phi thật tướng chánh ấn chi sở ấn dã.

Giải: thứ hai, biện định cái thể. Các Kinh đại thừa đều lấy thật tướng làm chánh thểMột niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, chẳng phải là quá khứ, chẳng phải là hiện tại, chẳng phải là tương lai, chẳng phải là xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, chẳng phải hương, chẳng phải vị, chẳng phải xúc, chẳng phải pháp.

Tìm thì trọn chẳng thể được, nhưng chẳng thể nói là không. Tạo đầy đủ bách giới thiên như, nhưng chẳng thể nói là có.

Lìa hết thảy duyên lự, phân biệt và tướng ngôn ngữ, văn tự, nhưng duyên lự, phân biệt và tướng ngôn ngữ, văn tự chẳng lìa khỏi điều này mà có tự tánh riêng biệt. Nói tóm gọn thì lìa hết thảy tướng chính là hết thảy pháp. Do lìa nên không có tướng, do chính là nên chẳng phải là không có tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng gọi là thật tướng.

Thể của thật tướng chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại tịch và luôn luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch. tuy chiếu mà vẫn tịch nên cưỡng gọi là Thường tịch quang độ. Tuy tịch nhưng vẫn chiếu, nên cưỡng gọi là thanh tịnh pháp thân. Lại nữa, do chiếu mà tịch nên cưỡng gọi là pháp thân. Tuy tịch nhưng lại chiếu nên cưỡng gọi là báo thân.

Hơn nữa, do tánh đức tuy tịch mà chiếu nên gọi là pháp thân. Do tu đức tuy chiếu mà tịch nên gọi là báo thân. Lại nữa, tu đức tuy chiếu nhưng vẫn tịch nên gọi là thụ dụng thân, tu đức tuy tịch nhưng có thể chiếu nên gọi là ứng hóa thân.

Tịch và chiếu chẳng hai, thân và cõi nước chẳng hai, tánh và tu không hai, chânứng không hai, không gì chẳng phải là thật tướng. Thật tướng không hai, mà cũng chẳng không hai.

Vì thế, toàn bộ cái thể có thể làm thành y báo, làm thành chánh báo, tạo thành pháp thân, tạo thành báo thân, tạo thành tự, tạo thành tha, cho đến người nói, đối tượng được nói, người hóa độ, kẻ được hóa độ, người tin, pháp được tin, người phát nguyện, điều được phát nguyện, người trì, pháp được trì, người sanh về, cõi để sanh về, người khen ngợi, đối tượng được khen ngợi, không gì chẳng được thật tướng chánh ấn in vào.

Phật giảng Kinh này dựa theo lý luận và sự thật nào để nói?

Phải hiểu rõ điều này trước rồi mới có thể thật sự sanh khởi tín tâm, y giáo phụng hành. Các Kinh đại thừa đều lấy thật tướng làm thể. Thật tướng là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Nhân sinh là chính mình, vũ trụ là hoàn cảnh sống. Đối với chúng ta, Kinh đại thừa trọng yếu như thế, chẳng thể không hiểu rõ hoàn cảnh sống của chính mình.

Nếu không hiểu, sẽ mê hoặc. Hễ mê, ắt điên đảo, coi thật là giả, tưởng tà là chánh, xem ác là thiện. Bởi đó, xử thế, đãi người, tiếp vật và tư tưởng, quan niệm đều nẩy sanh sai lầm. Kinh đại thừa chỉ dạy chúng ta một con đường tu hành chánh xác, đó là chỗ thù thắng của Kinh Điển đại thừa vậy.

Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài: Đoạn này rất khó hiểu, nhưng đúng là chân tướng sự thật được nói một cách đơn giản, ách yếu. Triết học gọi thật tướng là bản thể. Trong Kinh đại thừa, Đức Phật giải thích, nói theo mặt thể thì thật tướng là vô tướng.

Muôn pháp trong vũ trụ sanh ra như thế nào?

Thế giới hình thành như thế nào?

Động vật, thực vật tồn tại như thế nào?

Đều là do một căn nguyên mà sanh ra. Căn nguyên ấy chính là bản thể. Những nhà triết học và Tôn giáo trong ngoài nước xưa nay đều tìm tòi lời giải đáp cho vấn đề bản thể nhưng chưa đạt được kết luận, nên mới có những thuyết gọi là Nhất Nguyên Luận, Nhị Nguyên Luận, Đa Nguyên Luận, Duy Tâm, Duy Thức.

Từ ba ngàn năm trước, qua các Kinh đại thừa Đức Phật đã nói rồi. Đức Phật nói bản thể của vạn hữu là tâm. Muôn vật trong Trời Đất đều do tâm biến hiện ra.

Chủ thể biến hiện là một, còn những cái được biến hiện thì vô lượng vô biên. Kinh đại thừa gọi nó là chân như bổn tánh. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan kiếm chân tâm ở bảy chỗ, Phật đều bảo chẳng đúng. Chân tâm ấy không có hình tượng, không có màu sắc, không phải là quá khứ, hiện tại, vị lai, không phải là hương, vị, xúc, pháp.

Nhưng nó là có, chẳng phải là không. Phật Pháp thường dùng chữ không để hình dung nó. Không chẳng phải là cái gì cũng chẳng có.

Tâm Kinh dạy: Sắc chính là không, không chính là sắc. Sắc chẳng khác không. Không chẳng khác sắcSắc là nói về hiện tượng, không là nói về bản thể. Không là chủ thể biến hiện năng biến, sắc là cái được biến hiện, sở biến.

Quý vị đều có kinh nghiệm nằm mộng, cảnh giới trong mộng nhất định phải có một thứ gì đó biến hiện cảnh mộng, đem so với tâm tánh thì cảnh giới hiện ra trong mộng là sắc tướng, là do cái thể có khả năng biến hiện đã biến hiện ra chúng. Sắc tướng là giả, năng biến cái có khả năng biến hiện là chân.

Do vậy, tâm gọi là chân tâm, tánh được gọi là bổn tánh. Tướng là giả, bị biến đổi, nhưng thể của những tướng được biến hiện thì là chân. Sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều do nó biến hiện ra.

Do vậy, Thiền Gia có một câu nói: Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ. Nếu ai hiểu được tâm, đại địa không còn một tấc đất. Chúng ta hiện đang mê, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, tạo nghiệp, chịu báo, cảm nhận lục đạo luân hồi, hoàn toàn là do tự tâm biến hiện ra.

Nếu rời khỏi tâm tánh thì chẳng có một pháp nào để có thể đạt được. Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta và một niệm tâm tánh Chư Phật Như Lai chẳng hai, chẳng khác, nhưng có ý niệm thứ hai là sai rồi. Niệm thứ nhất là bổn tánh, niệm thứ hai là vọng tưởng, chấp trước.

Nếu giữ được nhất niệm thì sẽ thành Phật. Niệm thứ nhất không có phân biệt, chấp trước, bình đẳng đối với muôn pháp bên ngoài, chẳng có thiện hay ác, đúng hay sai, tà hay chánh, chân hay vọng, lợi hay hại, đó gọi là nhất chân pháp giới.

Cái niệm thứ hai là phân biệt, chấp trước đã dấy lên. Ví như tôi cầm một vật nào đó trong tay, quý vị vừa trông thấy thì rất rõ ràng, nhưng qua ý niệm thứ hai liền suy nghĩ vật này có tên là gì. Nó vốn không có tên gọi, tên gọi là do người ngoài đặt cho nó, là giả danh. Gọi nó là một trang giấy, màu trắng, tức là khởi lên phân biệt, chấp trước.

Từ đấy, dẫn khởi tham, sân, si, mạn. Chúng ta chẳng thể giữ cho niệm thứ nhất không biến đổi, hễ gặp bất cứ cảnh giới nào liền lập tức mê.

Đã mê lại càng thêm mê, luân chuyển trong sáu nẻo, chẳng có thuở thoát ra. Đấy chính là lý luận căn bản trong Phật Pháp, chẳng thể không biết. Dùng vàng chế ra đồ vật, món nào cũng là vàng. Đồ vật có thể biến đổi, chứ vàng chẳng thay đổi. Tướng có thể biến đổi, chứ thể chẳng biến đổi.

Tâm tánh bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến. Đáng tiếc là chúng ta vọng niệm này tiếp nối vọng niệm khác, vĩnh viễn không ngưng nghỉ. Do đây, tướng mà mình thấy được là vọng tưởng. Nếu có một ngày nào đó, thật sự đạt được nhất tâm thì sẽ thật sự thấy được thật tướng. Thật tướng là hết thảy pháp bất sanh bất diệt, trong Kinh Phật gọi đó là vô sanh pháp nhẫn.

Chúng ta sử dụng cái tâm sanh diệt, nên thấy hết thảy pháp đều có sanh, có diệt. Con người có sanh, lão, bệnh, tử, Thế giới có thành, trụ, hoại, không. Chư Phật, Bồ Tát dùng tâm bất sanh bất diệt, thấy hết thảy pháp bất sanh bất diệt. Học Phật tức là muốn công phu đạt đến mức nhất tâm, sự tu học trong đại thừa Phật Pháp xoay quanh điều này.

Thiền Tông gọi nó là thiền định, còn pháp môn niệm Phật gọi nó là nhất tâm. Nhất tâm là thiền định, mà cũng là thật tướng, chân như, bổn tánh. Niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn thì sẽ có cùng một cảnh giới với minh tâm kiến tánh trong nhà Thiền. Trong phương diện giáo học, ắt cần phải lập ra thuật ngữ danh tướng để tiện cho con người thấu hiểu.

Danh từ là giả lập, chớ nên chấp trước. Căn bệnh lớn nhất trong các pháp thế gian là chấp trước. Chúng ta nghiên cứu tâm tánh, nói đến các thứ danh tướng của chân như bổn tánh, tự mình đừng nên chấp trước, mà cũng đừng khiến cho người khác chấp trước.

Tu học Phật Pháp khó nhất là ở chỗ này. Đức Phật thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, nhưng Kinh Kim Cang lại chép Ngài chẳng nói một pháp nào cả.

Đức Phật nói: Tu Bồ Đề! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm, ngã đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm.

Hà dĩ cố?

Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố.

Này Tu Bồ Đề!

Ông đừng nói: Như Lai nghĩ như thế này, ta sẽ có pháp để nói, đừng nghĩ như vậy.

Vì sao?

Nếu có ai nói Như Lai có thuyết pháp thì chính là báng Phật vì chẳng thể hiểu lời ta nói. Chúng ta chớ nên chấp trước pháp do Đức Phật đã nói, phải thấu hiểu sâu xa điều này. Hễ chấp sẽ mê.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc. Chỉ một câu này đã nói toạc ra cái gốc bệnh của chúng ta chính là phân biệt, chấp trước. không có phân biệt, chấp trước thì chính là nhất chân pháp giới.

Nhất chân pháp giới là cuộc sống ở ngay trước mắt chúng ta. Phật Pháp không có gì khác, chỉ là phá chấp mà thôi. Phá trừ ngã chấp, chứng quả vị A La Hán trong tiểu thừa. đại thừa phá trừ pháp chấp, sẽ viên mãn thành Phật.

Thành Phật chỉ là phá được cả hai chấp mà thôi. Ngã chấp là cội nguồn của phiền não chướng, phá được ngã chấp thì đoạn được kiến tư phiền não. Phá được kiến tư phiền não sẽ thoát khỏi lục đạo luân hồi. Pháp chấp là cội nguồn của vô minh, phá được pháp chấp sẽ đoạn vô minh.

Kinh Điển dù đại thừa hay tiểu thừa đều giảng như vậy. Do đó, có rất nhiều tông phái, vô lượng pháp môn, nhưng phương pháp, lý luận đều nhằm giúp cho người học phá chấp và minh tâm kiến tánh.

Nay chúng ta chọn lựa pháp môn niệm Phật, niệm một câu A Di Đà Phật, dùng công phu chân thật của chính mình lại thêm bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, người căn tánh lanh lợi chịu buông phân biệt, chấp trước xuống sẽ khai ngộ dễ dàng.

Mịch chi liễu bất khả đắc, tìm kiếm thì trọn chẳng thể được là nói về tâm tánh. Đạt Ma Tổ Sư lúc diện bích, nhìn vào vách chín năm tại Chùa Thiếu Lâm, tìm chẳng được một ai để truyền pháp. Về sau, có Huệ Khả đến cầu pháp, chân thành, cung kính Tổ Đạt Ma.

Tổ Đạt Ma ngồi yên, chẳng đếm xỉa gì tới. Nhằm biểu thị lòng thành, Huệ Khả dùng đao chặt tay trái, dâng lên cúng dường. Tổ Đạt Ma cảm động, chấp nhận.

Huệ Khả liền hướng về Tổ Đạt Ma, thưa: Tâm con chẳng an, cầu Đại Sư an cái tâm cho con.

Tổ Đạt Ma bảo: Ông đem cái tâm lại đây, ta sẽ an nó cho ông.

Huệ Khả thưa: Con tìm tâm trọn chẳng thể được.

Đạt Ma nói: Ta đã an cái tâm cho ông rồi. Huệ Khả vừa nghe liền đại ngộ. Trong cuộc đối thoại của hai vị, Tổ Đạt Ma nói mà chẳng nói, Huệ Khả nghe mà chẳng nghe.

Tâm là có, chẳng thể bảo là không có, tận hư không, trọn pháp giới, muôn pháp, bách giới, thiên như trong vũ trụ đều do nó biến hiện, nhưng chẳng thể nói muôn pháp trong vũ trụ là thật sự có. Chúng ta thấy chúng thật sự có, vì dùng cái tâm phân biệt để nhìn. Chân tướng là đương thể tức không, ngay nơi bản thể của chúng là không.

Kinh Lăng Nghiêm khai huệ nói: Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận. Vẫn phải nói tới sanh diệt, vì không nói sanh diệt, chúng ta sẽ không có cách gì thấu hiểu được. Sanh và diệt là một, chẳng phải hai.

Tướng của nó là giả tướng, Kinh gọi là Diệu HữuChân không bất không, Diệu Hữu phi hữu.

Chân không chẳng phải là không mà Diệu Hữu chẳng phải là hữu. Nếu tâm đạt đến mức thanh tịnh kha khá thì mới có thể phần nào lãnh ngộ được ý nghĩa này.

Ví như coi phim, cuốn phim là do từng tấm phim ghép lại, nhưng khi chiếu phim với tốc độ rất nhanh, chỉ thấy hình tướng liên tục, mỗi một giây ống kính của máy chiếu phim đóng mở hai mươi bốn lần, kẻ tâm thô, thiếu công phu định lực sẽ chẳng thể nào phân biệt được.

Đức Phật nói giả tướng của vạn hữu trong vũ trụ sanh diệt chỉ trong khoảng khảy ngón tay. Trong một giây có thể khảy ngón tay bốn lần. Trong một khảy ngón tay có sáu mươi sát na, một sát na có chín trăm lần sanh diệt. Do vậy, trong một giây vừa vặn có hai cái mười tám ngàn lần sanh diệt.

Quý vị có thể nào nhận biết nó là giả hay chăng?

Bậc đại thừa Bát Địa Bồ Tát công phu định lực sâu dầy mới có thể thấy được rõ ràng. Niệm Phật niệm đến mức công phu thành phiến là bước thứ nhất, tiến hơn một bước nữa là sự nhất tâm bất loạn. Tiến thêm bước nữa là niệm đến mức lý nhất tâm bất loạn sẽ thấy được cảnh giới sanh diệt ấy. Tướng đều là huyễn tướng, chẳng phải là chân tướng.

Nếu quả thật có thể thấu hiểu hoặc có thể khẳng định thì sẽ hiểu thấu đáo câu Kinh Kim Cang sau đây: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng.

Kinh Kim Cang còn dạy: Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh. Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng. Ấy là lời chân thật.

Pháp hữu vi: Theo như Bách Pháp Minh Môn Luận thì tất cả hết thảy pháp quy nạp thành một trăm pháp, trong ấy chia thành năm loại lớn tâm pháp, tâm sở hữu pháp, sắc pháp, bất tương ứng hành pháp, vô vi pháp. Trừ sáu pháp vô vi ra, chín mươi bốn pháp kia đều gọi là hữu vi pháp.

Hữu vi pháp đều là mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, như ánh chớp, đấy là sự thật. Nếu có thể thật sự tin tưởng thì liền đạt được thanh lương tự tại. Đấy chính là sự thụ dụng thật sự trong đại thừa Phật Pháp.

Bách giới chính là mười pháp giới được mở rộng ra, trong mỗi một pháp giới lại có đủ mười pháp giới, nên mười nhân mười thành một trăm giới.

Thiên như: Trong mỗi một giới đều có mười như thị, khái niệm này xuất phát từ Kinh Pháp Hoa. Thập như thị là như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng. Mỗi một pháp giới có mười như thị, nên một trăm pháp giới có một ngàn như thị. Vì vậy gọi là bách giới thiên như.

Đại thừa Bồ Tát chẳng chấp trước có, mà cũng chẳng chấp trước không. Thấp hơn đại thừa thì phàm phu chấp có, nhị thừa chấp không, chấp lệch vào một bên là sai. Chấp có thì luân hồi trong lục đạo. Chấp không sẽ chẳng thể thấy được tánh.

Chỉ có đại thừa Bồ Tát biết chân tướng sự thật, chẳng chấp bên nào hết. Tâm tánh chẳng thể được, cảnh giới cũng chẳng thể được. Chẳng thể được là thật. Nếu nghĩ là có thể được thì đã hiểu sai rồi.

Thân thể của chúng ta và hết thảy muôn pháp đều biến hóa sanh diệt trong từng sát na, không có một pháp nào có thể được. Nếu thật sự hiểu rõ sâu xa sự thật này thì ý niệm được mất sẽ nhạt bớt, phiền não, ưu lự có thể giảm thiểu tới tám chín chục phần trăm. Đây là cảnh giới chẳng thể được, sự cũng chẳng thể được.

Tâm Kinh dạy: Vô trí, diệc vô đắc, không chỉ Ngũ ấm, Lục nhập, Thập bát giới chẳng thể được, ngay trí năng chứng và pháp được chứng là bồ đề Niết Bàn cũng chẳng thể được. Do tâm tánh là không, năng biến.

Chủ thể biến đổi, tức tâm đã chẳng thể được, thì sở biến, đối tượng bị biến hóa, tức hết thảy vạn pháp trong vũ trụ làm sao có thể được?

Nhập cảnh giới này thì chân tướng sẽ thấu hiểu rành rành, ngộ nhập thật tướng thì sẽ tận tình hưởng thụ hết thảy sự vật. Đừng nghĩ chúng là thật sự có, rồi mong chiếm hữu thì cuộc sống trên thế gian sẽ là du hý thần thông.

Bổn tánh tuyệt đối chẳng có tướng hư vọng, duyên lự là tư tưởng, phân biệt là kiến giải. Trong tâm tánh không có duyên lự, phân biệt. Cổ Đức dạy kẻ sơ học phải khởi sự từ căn bản trí. Căn bản trí là vô tri, cầu đạt tâm thanh tịnh, chứ không chấp thuận quý vị có kiến giải, có tư tưởng. Lìa hết thảy ngôn ngữ, văn tự, ở mãi trong cảnh giới định.

Người học Phật hiện thời dồn công sức vào nơi có hiểu biết, có tư tưởng, có kiến giải, sai lầm quá đỗi. Dẫu học Phật giỏi đến mấy, cũng chỉ có thể gọi là nhà nghiên cứu Phật Học lớn, chứ chẳng thể đoạn phiền não, đắc thanh tịnh tâm, liễu sanh tử, thoát tam giới, siêu phàm nhập thánh.

Tu học Tịnh Tông khá đặc biệt, ai nấy đều có thể học, môn này không dạy người học trụ tâm nơi định mà trụ nơi danh hiệu A Di Đà Phật. Trong tâm, trừ A Di Đà Phật ra, chẳng có một chút gì khác. Đấy gọi là có Tịnh Độ, hễ có Tịnh Độ, ắt sẽ sanh về Tịnh Độ.

Trong lúc học Phật thì vẫn có những chuyện thế gian cần phải làm, mà lại càng phải sốt sắng làm. Phật Pháp nằm trong thế gian, chẳng hoại tướng thế gian. Kinh Hoa Nghiêm nói sự lý vô ngại, sự sự vô ngại. Lý là tâm tánh, vĩnh viễn thanh tịnh. Sự là muôn hình tượng, làm chuyện thế gian đến mức viên mãn.

Hoằng Pháp trong hiện thời ắt phải dùng phương pháp cởi mở. Trước mắt, bất luận nam, nữ, già, trẻ, ai nấy đều cầu danh vọng, lợi dưỡng.

Nếu quý vị nói học Phật phải buông bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng, sẽ chẳng có ai học. Phải kềm cặp chúng sanh, dùng phương pháp chánh xác để cầu tiếng tăm, lợi dưỡng vừa lòng thỏa ý họ. Điều này hoàn toàn chẳng trái nghịch Phật Pháp. Phật Pháp vốn dạy con người lìa khổ được vui mà.

Hiểu rõ rệt đạo lý sau đây: Trong cửa Phật, có cầu ắt ứng. Cầu phú quý, đắc phú quý. Cầu công danh, đắc công danh.

Gia đình mỹ mãn, xã hội an định, thiên hạ thái bình, điều gì cũng cầu được. Đọc kỹ và làm theo những chỉ dạy trong ba Kinh Tịnh Độ thì sẽ đạt được những mục đích ấy. Ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Ly cố, vô tướng.

Tức cố, vô bất tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh thật tướng.

Lìa hết thảy tướng chính là hết thảy pháp. Do lìa, nên vô tướng. Do chính là, nên chẳng phải không có tướng.

Bất đắc dĩ, cưỡng gọi là thật tướng. Thật tướng cũng là một danh từ giả danh. Tách lìa tướng danh tự liền thấy được chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Khi chẳng khởi một niệm sẽ thấy được chân tướng, phải dùng nhất tâm thì mới được.

Còn dùng ý niệm sẽ là nhị tâm, rồi lại có phân biệt, liền trở thành tam tâm. Vô tướng là không có phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, chẳng có tướng hư vọng, chẳng có ý niệm. Chữ tức ý nói sống ngay trong thế gian này, chẳng tách rời thế gian, chẳng tách lìa, chỉ có thể thụ dụng nó.

Hết thảy muôn sự muôn pháp đều tồn tại, là có tướng, nhưng chẳng chấp trước vào những tướng ấy, chúng sẽ chẳng khởi tác dụng phụ, nhưng cũng chẳng thể buông bỏ nó. Hễ buông bỏ thì lại là chấp vào không. Thật tướng chi thể, phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch.

Thể của thật tướng chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại vừa tịch vừa luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch. Câu này giảng rõ không rớt vào hai bên. Tịch và chiếu có thể lần lượt làm thể và dụng cho nhau. Thật tướng tức là tâm tánh, bản thể của tâm tánh là tịch, khởi tác dụng là chiếu.

Cũng có thể nói: Thể của tâm tánh là chiếu, khởi tác dụng là tịch.

Tịch là vắng lặng, chẳng sanh một niệm, tức là như Lục Tổ đã nói: Vốn chẳng có một vật. Chiếu là hiểu rõ, vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều hiểu rõ ràng. Thể chẳng phải là tịch, chẳng phải là chiếu. Nó vốn chẳng thể nói là tịch hay chiếu. Hễ rớt vào tịch hay chiếu sẽ khởi lên phân biệt.

Thánh Nhân thế gian lẫn xuất thế gian thường dạy chúng ta hãy dùng trung, tuyệt đối đừng thiên chấp một bên. Tiểu Thừa thiên chấp không, phàm phu thiên chấp có.

Trung là tịch nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch. Là tịch nhưng luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch. Như như bất động là tịch, rõ rệt rành rành là chiếu. Lý luận này hết sức trọng yếu. Khó thể hình dung thật tướng, lìa ngôn thuyết, lìa văn tự, lìa tâm duyên. Ngôn ngữ nói chẳng được, suy nghĩ, tưởng tượng cũng chẳng dò lường được.

Cổ Đức thường nói: Khai khẩu tiện thác, động niệm tức quai. Mở miệng liền sai, động niệm liền trật. Khởi tâm động niệm đã chẳng phải là thể của thật tướng, đem tịchchiếu áp dụng vào thật tướng cũng chẳng được, nhưng quả thật tồn tại ý nghĩa tịch và chiếu.

Lặng trong như nước, mặt nước giống như một tấm gương đó là tịch, có thể soi bóng những thứ bên ngoài rõ ràng, rành rẽ. Tâm địa thanh tịnh, thông suốt khắp mười phương tam thế, được gọi là chiếu, còn gọi là thần thông, phàm phu chẳng thể thấu hiểu được.

Loại năng lực này chẳng phải riêng Chư Phật mới có, mà hết thảy chúng sanh đều có, đáng tiếc là đã chôn vùi phần lớn. Hiện thời, mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, đều thuộc về thần thông, nhưng năng lực nhỏ nhoi đến mức mắt bị ngăn cách bởi một tờ giấy sẽ không thể thấy được, khả năng nghe của tai cũng giống như vậy.

Năng lực ấy vì sao bị chôn vùi?

Chính là do một niệm bất giác mà có vô minh. Vô minh vừa khởi lên, năng lực của chiếu bị mất đi. Có một niệm khởi, liền bị chướng ngại thành mê, càng mê, càng sâu.

Những đạo lý mê như thế nào, phương cách đả phá sự mê hoặc ấy hòng khôi phục cái tâm thanh tịnh được sáu Kinh, mười một luận của Tông Hoa Nghiêm và Tông Duy Thức giảng tường tận nhất. Mê là tác dụng của cảm tình, tình càng sâu, mê càng nặng.

Tình do mê vọng sanh ra, chính là hư tình giả ý chắc chắn sẽ biến đổi. Chiếu là lý trí, do lý trí sanh ra, vĩnh viễn chẳng biến đổi, chiếu là chân tình. Phật Pháp chẳng dùng chữ tình, mà dùng một danh từ khác là từ bi. Từ bi sanh từ tịch và chiếu, chẳng bị biến đổi.

***