Haèng thuaän chuùng sanh
Tuyø hyû coâng ñöùc

tinhdo.edu.vn

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI - TẬP MƯỜI BỐN

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP MƯỜI BỐN

QUỐC GIỚI NGHIÊM TỊNH

ĐỆ THẬP NHẤT
 

Từ chỗ này trở xuống, Thế Tôn vì chúng ta giới thiệu trạng huấn của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, cũng tức là các thứ trang nghiêm. Phẩm này là rộng nói về Quốc Độ thanh tịnh, trang nghiêm, cũng tức là bốn mươi tám nguyện.

Nguyện thứ nhất: Quốc vô ác đạo.

Nguyện thứ ba mươi chín, trang nghiêm vô tận, do đây có thể biết, Thế Tôn vì chúng ta giảng bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, trên thực tế tức là đem bổn nguyện của A Di Đà Phật vì chúng ta giới thiệu một cách rộng rãi mà thôi, bốn mươi tám nguyện đích thực là trung tâm của Tịnh Tông, là tổng cương lĩnh của Tịnh Tông, xin xem phần Kinh Văn.

Phật cáo A Nan: Bỉ Cực Lạc giới, vô lượng công đức, cụ túc trang nghiêm. Vĩnh vô chúng khổ, chư nạn, ác thú, ma não chi danh, vậy đây tức là quốc vô ác đạo, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có ác đạo. Ác đạo là quả.

Nước đó vì sao chẳng có ác đạo?

Vì chẳng có người tạo tam ác đạo, chẳng có người tạo nhân, thì đương nhiên chẳng thể có quả báo này, từ chỗ này chúng ta có thể thể hội đến sự trang nghiêm chân thật của nó. Hai câu phía trước là nói chung Cực Lạc Thế Giới là vô lượng công đức, cụ túc trang nghiêm, hai câu này là tổng cương lĩnh.

Trang nghiêm như thế nào?

Thì phía dưới vẫn là nói sơ lược, nếu như nói kỹ thì nói không hết, chẳng những là người thường chúng ta nói không hết, đích thật ngay cả Chư Phật cũng nói không hết. Vậy mở đầu vì chúng ta giới thiệu vài nét thế giới chẳng có chúng khổ.

Thế Tôn thường thường ở trong Kinh vì chúng ta thuyết minh, thế giới này của chúng ta rất khổ, việc khổ quá nhiều nói không hết, Phật thuyết pháp thường dùng phương pháp quy nạp, đem cái khổ vô lượng của chúng ta quy nạp thành ba đại loại, tám đại loại chúng ta thường nói tam khổ, bát khổ tam khổ phạm vi lớn, bát khổ phạm vi nhỏ. Tam khổ là nói tam giới, Dục Giới khổ, Sắc Giới khổ, Vô Sắc Giới khổ, đây là tam khổ, tam giới đồng khổ.

Trong Kinh Pháp Hoa có một tỉ dụ: Tam giới là hỏa trạch giống như là một căn nhà lớn, trong căn nhà lớn này, lửa đã bốc cháy, tuy nhiên vẫn chưa cháy đến, nhưng vẫn nhất định phải cháy đến, tam giới đồng khổ.

Còn bát khổ này thì sao?

Đây chuyên nói về Dục Giới, cũng tức là chúng ta hiện tiền chỗ thọ nhận.

Tám thứ khổ gì?

Cái này chúng ta cũng không thể nói kỹ, chỉ có thể đem danh mục giới thiệu ra thôi, phía trước bốn thứ là sanh, lão, bệnh, tử, bốn thứ khổ này có thể nói là chúng sanh của Dục Giới bất cứ người nào đều chẳng có biện pháp tránh miễn được, sanh, lão, bệnh, tử. Ngoài ra còn những thứ ngoài thân cũng tức là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta.

Có: Cầu bất đắc khổ, chúng ta người đều có dục vọng. Có người có dục vọng rất lớn, có người có dục vọng rất nhỏ, chẳng kể anh lớn nhỏ, cầu bất đắc chẳng được mãn nguyện điều này rất khổ não.

Loại thứ sáu gọi là ái biệt ly khổ, người anh ưa thích thường thường chẳng được đoàn tụ đây là việc khổ, hoàn cảnh anh ưa thích cũng thường thường chẳng thể thường trú nơi đó, chẳng thể hưởng thụ cũng là khổ.

Loại thứ bảy gọi là oán tấn hội khổ, oan gia đối đầu chẳng thích sống chung một nơi mà vẫn phải gặp mặt nhau, vẫn cứ chẳng thể xa lìa đây là khổ, hoàn cảnh chẳng ưa thích mà chẳng có biện pháp thoát ly, đây là đều thuộc về oán tấn hội khổ.

Điều sau cùng gọi là ngũ ấm xí thạnh khổ, điều này so ra khó hiểu hơn, nói theo cách cạn cợt, tức là cái vọng tưởng trong thân, tâm phiền não quá nhiều, quá nhiều.

Cái này là nhân, Phật vì chúng ta nói pháp đều là chẳng rời khỏi nhân quả, bảy thứ khổ phía trước là quả báo, còn điều này là nhân khổ, tại sao chúng ta có nhiều cái khổ như vậy?

Tức là vọng tưởng phiền não của chúng ta quá nhiều, quá nhiều. Cho thấy rằng bệnh căn đều chẳng rời vọng tưởng chấp trước, đây quả thật là bệnh căn.

Ở Tây Phương Thế Giới chẳng có, tại sao chẳng có?

Vì chúng ta sinh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới là Liên Hoa hóa sanh, chẳng phải cái thân do cha mẹ sanh. Cho nên chẳng có bát khổ. Tây Phương Thế Giới là nhất chân pháp giới, chẳng những chẳng có lục đạo mà thập pháp giới cũng chẳng có.

Vậy thì làm sao có tam khổ?

Tam khổ, bát khổ ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng những chẳng có sự việc này, mà cái tên cũng chẳng nghe nói đến, đều chẳng nghe nói qua.

Vĩnh vô chúng khổ, chư nạn, chữ nạn này là tai nạn, thiên tai, nhân họa. Đây là thế gian này chúng ta vô phương tránh miễn. Hơn nữa hiện nay công cụ truyền bá của đại chúng phát đạt, hầu như chúng ta mỗi ngày nghe tin tức đều nghe được có rất nhiều tai nạn xảy ra như là động đất, tại vùng biển duyên hải Đông Nam Á có gió bão… những thứ này đều thuộc về thiên tai.

Còn trong nhân họa?

Lớn là chiến tranh, còn tai nạn nhỏ thì là quá nhiều. Đều là thuộc về loại này. Thường thấy nhất là tai nạn xe cộ, đều thuộc về một trong các thứ tai nạn. Ác thú, là ác đạo, chúng ta mỗi ngày khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác ở đó tạo tham sân si, ở đó tạo sát, đạo, dâm, vọng thì có quả báo của tam đồ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cái này gọi là ác thú.

Ma não chi danh, thì như trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, nói đến bốn thứ ma cái này những bạn đồng tu học Phật thông thường đều có thể biết Ngũ Ấm Ma, Phiền Não Ma, Thiên Ma, Tử Ma đây là bốn loại. Cái gọi là ma, là chiết ma, khiến cho thân tâm chúng ta khó chịu đựng, chiết ma.

Thời xưa chữ ma này phía sau không phải chữ quỷ, mà là chữ thạch, nghĩa là hòn đá, chữ ma của chiết ma. Sau đem chữ thạch bỏ đi đổi lại thành chữ quỷ. Đây là Vua Lương Võ Đế đặt, chữ này là do Vua Lương Võ Đế đặt ra.

Vua Lương Võ Đế nói: Việc này chịu đựng khó quá, cùng việc gặp ma quỷ như nhau, cho nên đem chữ thạch đổi thành chữ quỷ. Đây là về sau trong Kinh Điển mới có chữ này, trong Kinh Điển thời xưa chẳng phải chữ này.

Điều này chúng ta cần phải hiểu rõ. Ma đến não hại. Trong Kinh Lăng Nghiêm thì giảng được thì rõ ràng hơn, giảng đến năm mươi thứ ấm ma, cách giảng đó rất là tường tận.

Ở Tây Phương Thế Giới những việc ác này cái tên đều chẳng có thì làm gì có sự việc này!?

Hiển thị ra Tây Phương Thế Giới là vui đấy, chẳng có khổ. Diệc vô tứ thời, hàn thử vũ minh chi dị, đây là thuyết minh địa phương ấy thiên thời tốt. Thế gian chúng ta có bốn mùa khí hậu thay đổi rất lớn, khí cũng chẳng hòa, tượng cũng chẳng tốt. Ngày nay chúng ta gọi là khí tượng, khí tượng đều chẳng hòa.

Địa phận Tân Gia Ba này cách xích đạo chỉ có một độ, trong bốn mùa chỉ có một mùa, Tân Gia Ba chỉ có mùa hè, tuy nhiên thỉnh thoảng rơi xuống cơn mưa thì cũng trở thành mùa xuân, mùa thu. Vừa mưa xuống thì trở thành mùa xuân thu. Vậy vẫn là có thay đổi, chẳng giống như Tây Phương Thế Giới vĩnh viễn là hòa mục, nơi đó chẳng có sự thay đổi của khí hậu.

Vì vậy cho nên sở hữu tất cả vạn vật đều là thường trụ bất biến. Bởi vì thế gian này của chúng ta biết được có rất nhiều vật chất theo khí hậu mà đang sanh ra biến hóa, đang biến dịch, còn nơi đó thì chẳng có.

Phục vô đại tiểu giang hải, nơi địa phương này của chúng ta có sông ngòi, có sông lớn, có biển cả, ba đào ầm ĩ, dù có đi bằng ghe. Hiện nay có ghe lớn. So ra an toàn hơn một tí.

Thời xưa hàng hải đều là dùng ghe buồm, ghe chẳng lớn, tánh nguy hiểm rất cao, trên biển cả gặp sóng lớn, gặp phải bão tố thường ghe bị lật, cho nên có tai nạn nhiều như vậy.

Khưu lăng khanh khảm, đây là đất không bằng, đi bộ rất khó khăn. Kinh cức sa lịch, đất không bằng phẳng thì đã khó đi rồi, còn có thêm nhiều chướng ngại như vậy, vật chướng ngại này là Kinh cức, là loại thực vật có gai, chúng ta không lưu ý thì bị nó chích bị thương.

Trong phạm vi lớn như vậy, có núi Thiết Vi, có núi Tu Di cùng những hòn núi đất đá, trên địa cầu chúng ta đều cao thấp không bằng phẳng, các thứ chướng ngại của hoàn cảnh này, cư ngụ nơi hoàn cảnh này chẳng phải là lý tưởng.

Những thứ này ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có, địa phương đó là duy dĩ tự nhiên thất bảo, điều này thì bất khả tư nghì.

Thất là nghĩa tượng trưng chẳng phải con số, điểm này chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng. Giả như anh cho là Tây Phương Thế Giới chỉ có bảy thứ bảo thì là quá ít. Vậy thế giới đó không thể xưng là Cực Lạc được, trân bảo là vô lượng vô biên, thất là đại biểu cho viên mãn.

Chúng ta thường nói bốn phương: Thượng, hạ, giữa đây là viên mãn, là đại biểu nghĩa này, đại biểu viên mãn tất cả đầy đủ. Trân bảo của mười phương Chư Phật Thế Giới, Tây Phương Thế Giới thảy đều đầy đủ, một thứ cũng chẳng thiếu, chữ thất là đại biểu ý nghĩa này, đều là sự thành tựu của trân bảo.

Hoàng kim vi địa, cái này phía trước đã nói quý vị rồi, vi địa là để lát đường lộ, Tây Phương Thế Giới lấy vàng để lót đường. Khoang quảng bình chánh, đường lộ thì là rộng.

Bình, thẳng, chánh tức là nghĩa chánh trực, rất ít có đường cong quẹo, đều là đường thẳng, trong Kinh đại thừa thường nói: Cảnh do tâm sanh, tâm thanh tịnh thì thế giới thanh tịnh. Người của Tây Phương Thế Giới mỗi một người được vãng sanh đều là tu tịnh nghiệp, nói một cách khác đều là tu thanh tịnh tâm, tâm thanh tịnh thì thân khẩu tự nhiên chẳng tạo ác nghiệp, thì tự nhiên thanh tịnh, tam nghiệp thanh tịnh.

Mỗi một người được vãng sanh đều tu tịnh nghiệp, cảnh giới này do nguyện lực của Di Đà cộng nghiệp thanh tịnh của đại chúng, thành tựu cái thế giới này.

Bất khả hạn cực. Vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm, vi diệu là nói cái thể của nó, cùng mười phương Chư Phật Thế Giới, quyết định chẳng tương đồng. Như thế giới chúng ta đây tất cả vạn vật. Giống như phía trước nói. Đất đai, cát sỏi, loại vật chất đều vô cùng thô, vã lại đều là vô thường. Kỳ lệ, cũng tức là chúng ta thường nói, quang hoa sáng lạng, đẹp không thể tả, thanh tịnh trang nghiêm.

Siêu du thập phương, nhất thiết thế giới, mười phương tất cả Chư Phật Thế Giới đều không thể cùng Cực Lạc Thế Giới so sánh nỗi. Đây là Thế Tôn đơn giản tất yếu vì A Nan nói ra sự trang nghiêm đẹp đẽ của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Ngài hướng về A Nan nói A Nan là đại biểu của chúng ta, tức là hướng về mọi người chúng ta giới thiệu: A Nan văn dĩ.

A Nan Tôn Giả nghe nói xong:

Bạch Thế Tôn ngôn: Nhược bỉ quốc độ, vô Tu Di Sơn, kỳ Tứ Thiên Vương thiên, cập Đao Lợi Thiên, y hà nhi trụ?

A Nan hoàn toàn đại biểu cảnh giới phàm phu của chúng ta, vọng tưởng chấp trước thảy đều chẳng xả bỏ.

Cho nên vừa nghe lời này, thì liền khởi dậy vọng tưởng chấp trước, bởi vì tất cả Chư Phật sát độ, đều có mười pháp giới, đều có lục đạo, sự thành hình của thế giới, đều có tiểu thế giới, tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, đại thiên thế giới. 

Hầu như tất cả Chư Phật sát độ, đại để đều là như vậy, đều là hình thức này, chẳng có gì đặc biệt, ông ta chẳng biết được Tây Phương Thế Giới là có thế giới đặc biệt, chẳng có những thứ này, nổi dậy vọng tưởng, vậy Thế Tôn thì sao?

Thế Tôn nói pháp, vô cùng tuyệt diệu, chẳng có nói với ông ta Tây Phương Thế Giới là nhất chân pháp giới, chẳng có thập pháp giới, chẳng có lục đạo, Ngài chẳng nói như vậy, vậy thì cách nói pháp này mang đến cho chúng ta sự khải thị rất lớn.

Phật cáo A Nan: Dạ Ma Đâu Suất, nãi chí Sắc Vô Sắc Giới, nhất thiết Chư Thiên, y hà nhi trụ?

Phật hỏi ngược lại A Nan Tôn Giả, Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, chẳng lìa khỏi mặt đất, họ là ở trên mặt đất. Tuy nhiên Sắc Giới cùng với Vô Sắc Giới và Dục Giới Thiên, Dạ Ma Thiên trở lên là không tụ thiên chẳng ở trên mặt đất, đây là không tụ thiên.

Còn Đao Lợi Tứ Vương gọi là Địa Tụ Thiên chẳng rời khỏi mặt đất, cho nên không tụ thiên, không tụ Thiên Chúng ta rất khó tưởng tượng, giả như chúng ta nghĩ rằng: Có lẽ người xưa nói đến Thiên Nhân có thể là người của tinh cầu ngoài thái không đến nơi đây của chúng ta họ là từ trên trời đến là từ trên tinh cầu đó đến.

Trong Phật Pháp chúng ta họ vẫn là người, vì sao?

Vì chỉ có một tinh cầu thì nó có đất nó vẫn là địa tụ, nó chẳng phải ở trong không trung, chẳng phải cái không này, bất cứ chúng sanh cư trú trong tinh cầu nào đều là địa tụ, nó có đất đai.

Cho nên chữ địa tụ ấy chẳng phải chuyên chỉ địa cầu của chúng ta, ngoài địa cầu đều là thiên thượng, chẳng phải vậy, chỉ cần có đất đai, tinh cầu đều là địa tụ thiên, đều là địa tụ.

Chữ không tụ này thì rất khó tưởng tượng nỗi, kỳ thật hiện nay trong khoa học chúng ta lại phát hiện có thể giúp cho chúng ta giải thích hiện tượng này trong Kinh Phật hiện nay nhà khoa học có nói không gian này có độ số vô hạn, thế gian này của chúng ta có ba độ không gian, bốn độ không gian, nếu nâng lên đến năm độ, sáu độ, bảy độ, đến vô hạng độ thì cảnh giới ấy bất khả tư nghì. Điều này có thể giúp cho Kinh Phật làm một chú giải cảnh giới không tương đồng.

A Nan bạch ngôn: Bất khả tư nghì, nghiệp lực sở trí, A Nan đáp rất hay. Do nghiệp lực bất khả tư nghì chỗ đưa đến, A Nan vẫn thuộc hạng thông minh, trả lời không sai, ông thể hội đến được chỗ này.

Phật ngữ A Nan: Bất tư nghì nghiệp, nhữ khả tri da?

Thật tại mà nói, trong này quan trọng nhất tức là vì chúng ta mà nói những lời này bất tư nghì nghiệp, nhữ khả tri da?

Ông có biết không?

Nhữ thân quả báo, bất khả tư nghì, thân thể hiện nay của chúng ta, quả báo của chúng ta bất khả tư nghì đây là thật, chẳng phải giả. Chúng sanh nghiệp báo, diệc bất khả tư nghì. Chúng ta thấy được tất cả hữu tình chúng sanh tức là chúng ta hiện nay nói đến, động vật nghiệp báo của sở hữu chúng sanh cũng bất khả tư nghì.

Thiện căn của chúng sanh cũng bất khả tư nghì. Chư Phật thánh lực, Chư Phật Thế Giới, diệc bất khả tư nghì, tổng quy là nghiệp lực bất khả tư nghì.

Nếu như chúng ta thử nghĩ chúng ta bình thường có thể thể hội được cảnh giới ấy, cảnh giới bất khả tư nghì, cảnh giới trong mộng, trong mộng có cảnh giới, thử hỏi cảnh giới trong mộng chúng ta đó là trụ trong hư không hay là trụ trên mặt đất?

Mỗi người đều nằm mộng, trong mộng có cảnh giới, thử hỏi khi anh nằm mộng, anh là trụ trên địa cầu hay là trụ tại trong hư không?

Ngoại trừ trong mộng ra, trong định cũng có cảnh giới, niệm Phật cũng được, tham thiền cũng được, khi ngồi thiền nhập định, trong định có cảnh giới.

Cảnh giới trong định này, rốt cuộc là ở trên mặt đất hay là ở trên hư không?

Thật tại mà nói thời gian, không gian ấy đã khác nhau, đã chuyển đến trong một thời gian, không gian khác rồi, đây tức là chỗ này nói bất tư nghì nghiệp lực thiện căn của chúng sanh giống như trong một đoạn Kinh Văn phía trước chỗ nói.

Anh xem! A Xà Vương Tử cùng năm trăm vị trưởng giả trong đời quá khứ vô lượng kiếp đến nay đều học Phật, cúng dường Chư Phật Như Lai đây là nghiệp lực bất tư nghì.

Chúng ta ngày nay có duyên gặp được pháp môn thù thắng thế này có lẽ nghiệp lực của chúng ta cùng họ tương đương chẳng sai biệt nhiều, chẳng phải nghiệp lực như vậy thì anh chẳng gặp được pháp môn này.

Anh có thể gặp được pháp môn này thì có thể nói, trong đời quá khứ của anh cái thiện căn ấy đã cùng với A Xà Vương Tử chẳng sai biệt bao nhiêu, nếu như anh sánh với ông ta nhiều hơn một tí thì tình hình khác hẳn.

Anh nghe xong rất ưa thích lại còn phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ điều này chứng minh anh trong đời quá khứ chỗ tu tập thiện căn vượt hơn A Xà Hoàng Tử cùng năm trăm vị trưởng giả, vượt hơn họ. Trong một đời này anh quyết định thành tựu.

Chư Phật thánh lực, ở chỗ này đặc biệt chỉ cho bổn nguyện oai thần gia trì của Đức Di Đà, chúng ta người niệm Phật lúc lâm chung Phật đến tiếp dẫn, điều này bất khả tư nghì.

Vậy Chư Phật Thế Giới, đặc biệt là chỉ cho Cực Lạc Thế Giới, Hoa Tạng Thế Giới của Tỳ Lô Giá Na Phật, báo độ của Chư Phật Thật báo trang nghiêm độ cùng với Thường tịch quang tịnh độ thật là bất khả tư nghì. Kỳ quốc chúng sanh, công đức thiện lực, trụ hành nghiệp địa, cập Phật thần lực, cố năng nhĩ nhỉ.

Phật đến chỗ này mới đáp phúc A Nan Tôn Giả, điều này cuối cùng sự việc ra sao?

Trụ hành nghiệp địa, thấy Phật được bình đẳng thân nghiệp, điều này theo trên Tịnh Tông mà nói, việc này là rất khó có được, rất là hy hữu. Thấy được A Di Đà Phật. Đương nhiên khi anh sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới rồi, nghe tên thì được bình đẳng khẩu nghiệp, cái này chẳng sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng có được.

Còn việc thấy Phật thì nhất định phải đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, đại chúng của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thân tướng đều là bình đẳng, được bình đẳng thân, còn nghe tên thì sao?

Chúng ta ở trong nhân địa là được rồi, chúng ta nghe được Nam Mô A Di Đà Phật. La Hán, Chư Bồ Tát nghe được cũng là Nam Mô A Di Đà Phật, bình đẳng khẩu nghiệp. Gặp được Phật Quang, hiểu rõ Phật Pháp được bình đẳng ý nghiệp.

Vậy đây tức là vô nhà Như Lai, trụ ở Di Đà hành nghiệp, trụ hành nghiệp địa, cập Phật thần lực, A Di Đà Phật bổn nguyện oai thần biến hiện ra cảnh giới này, chúng sanh bình đẳng nghiệp lực. Cho nên nó là tự nhiên. Chúng ta thường nói pháp nhĩ như thị tự nhiên hiện ra một quốc độ quảng đại nghiêm tịnh này, có cái nhân như thị, thì tất có cái quả như thị, chỉ là nhân duyên quả báo.

A Nan bạch ngôn nghiệp nhân quả báo bất khả tư nghì đây là một câu tán thán sau cuối của A Nan. Trong Kinh có nói, bất tư nghì nghiệp lực cho dù rất xa cũng nhất định có liên hệ, khi quả báo thành thục quyết định chẳng thể tránh miễn, đây là chân tướng của sự thật.

Nếu như chúng ta hiểu rõ thì chúng ta khởi tâm động niệm, tất cả tạo tác thì không thể không cẩn thận, Chư vị đồng tu nhất định phải ghi nhớ. Phật chẳng phải là một Quốc vương, cũng chẳng phải là một Giáo chủ, tâm Phật thanh tịnh một hạt bụi chẳng nhiễm, Phật đối với chúng ta chẳng có một tơ hào kỳ vọng nào.

Phật nói những lời này lẽ này lại gạt anh hay sao?

Gạt người phải có lý do, chẳng có lý do gạt người đó là thần Kinh có vấn đề, anh thử xem.

Phật có giống người thần kinh có vấn đề không, giảng ra nhiều Kinh như vậy, giảng được nhiều Kinh có trình tứ lớp lang từng thứ phân minh… chẳng giống như người đầu óc có vấn đề, Ngài vì sao lại có thể gạt anh?

Nếu như nói Ngài là Quốc vương, Ngài vì chính trị, phải thống trị bá tánh, khiến anh lúc nào đều phải nghe lời Ngài, chẳng thể tạo phản, Ngài nói những đạo lý như phải mà chẳng phải, có thể gạt gẫm anh. Nếu như là một Giáo chủ Ngài muốn lôi kéo tín đồ, chẳng để tín đồ chạy mất Ngài cũng có thể gạt anh.

Phật đã chẳng là Quốc vương. Chẳng có mục đích chính trị, Ngài cũng chẳng phải Giáo chủ. Chẳng có mục đích Tôn giáo, Ngài thành tâm thành ý chỉ dạy chúng ta, có được lợi ích là cá nhân chúng ta, thật tình mà nói cùng Ngài chẳng có liên can, chúng ta được họa được phước cùng Phật chẳng có liên can, điểm này quý vị nên nhớ rõ ràng.

Đây thật sự là một người tốt, chúng ta trong một đời này khó gặp được, gặp được người tốt như vậy, chỉ dạy chúng ta làm thế nào lìa họa được phước.

Cho nên Phật là bằng thân phận vị thầy để xuất hiện, gọi là thầy vẫn là đối với Ngài tôn kính xưng hô, riêng Ngài thì chẳng có niệm này, nếu Ngài có cái niệm này vậy thì Ngài vẫn có mục đích, Ngài chẳng có niệm này, điều này chúng ta nhất định phải rõ. Cho nên nhân quả báo ứng là chân tướng của sự thật của thế và xuất thế gian.

Sự tạo tác của thân thể chúng ta. Tạo nghiệp là thân tạo nghiệp. Ngôn ngữ của miệng chúng ta và thái độ biểu hiện là khẩu nghiệp, thân nghiệp. Trong tâm khởi tâm động niệm là ý nghiệp. Chúng ta tạo nghiệp thiện nhất định được thiện báo, chúng ta tạo nghiệp ác nhất định được ác báo. Quả báo thông ba đời, không nhất định hiện tại ta tạo đó thì hiện tại liền được báo, không nhất định.

Trong Kinh Luận thường nói dục tri tiền thế nhân, anh muốn biết anh đời trước tạo nhân gì?

Phật nói kim sanh thọ giả thị chúng ta đời này chỗ thọ là đó. Cái thọ đó là quả, chúng ta trong đời này rất vui sướng, rất hạnh phúc vậy là đời trước nhất định tạo đó là thiện nghiệp, chúng ta được thiện quả. Đời này đời sống sống rất cực khổ, rất khó chịu đựng, vậy chúng ta đời trước tạo nghiệp bất thiện, đời này báo được quả báo chẳng tốt, là đạo lý như vậy.

Cho nên quả báo là ba đời, muốn biết đời sau quả báo như thế nào, Phật dạy chúng ta kim sanh tác giả thị, anh trong đời này chỗ tạo tác đó là quả báo của kiếp sau, nếu như chúng ta đem đạo lý này tham thấu rồi, thật sự hiểu rõ, khẳng định rồi thì trong một đời này của chúng ta bất cứ chịu lấy hoàn cảnh gì?

Thôi đi, cứ cắn chặt răng thì là hết.

Là vì sao?

Vì tự làm, tự chịu là cái nghiệp trước kia vô tri tạo nên, nhưng đời sau tôi nhất định phải tốt hơn đời này. Tôi biết được hiện nay tôi phải tạo nhiều thiện nghiệp thì quả báo đời sau sẽ thù thắng.

Vậy đời sau dù là hạnh phúc mỹ mãn, vui vẻ một đời đều có thể xứng tâm như ý, anh có thể bảo đảm đời đời kiếp kiếp đều hạnh phúc vui vẻ không?

Có thể bảo đảm tôi đều chẳng mê hoặc không?

Điều này thì là khó. Anh xem, hiện nay trên thế gian này có rất nhiều người thật sự hạnh phúc vui vẻ, họ chẳng học Phật, họ hàng ngày ở trong chốn hoang lạc sống qua tháng ngày.

Đi nhảy đầm, vui chơi hoang lạc. Đời trước học Phật tu những thiện nghiệp được quả báo này, đời này họ chẳng chịu làm họ chẳng học Phật nữa, khi các phước báo hưởng hết rồi thì ác báo nghiệp hiện tiền. Phải đọa lạc.

Phải đọa lạc, đó mới là khổ. Cho nên chúng ta mặc dầu tu thiện được thiện báo chẳng thể bảo đảm lại gặp được Phật Pháp, chẳng thể bảo đảm tiếp tục tu thiện nghiệp, sự việc này thì là phiền phức.

Cho nên người chân chánh thông minh, người chân chánh minh bạch thì phải nghe lời của Phật cầu sanh Tịnh Độ, cầu sanh Tịnh Độ lợi ích ở chỗ nào?

Là vĩnh viễn chẳng mê hoặc vĩnh viễn chẳng tạo ác nghiệp, đích thật từ nay về sau đời đời kiếp kiếp tích công lũy đức, kết quả nhất định giống như A Di Đà Phật. Điều này không thể không biết, nghiệp nhân quả báo bất khả tư nghì. Câu này chúng ta phải thường coi trọng.

Ngã ư thử pháp, thật vô sở hoặc, A Nan ở chỗ này cũng đã nói lên lời chân thật, A Nan nói với sự việc này rất rõ ràng rất minh bạch, vậy tại sao phải hỏi như vậy?

Hỏi là thay chúng ta mà hỏi chẳng phải Ngài không hiểu. Đản vi đương lai chúng sanh, phá trừ nghi võng, cố phát tư vấn. Đây là A Nan từ bi thay chúng ta để hỏi ông ta vừa hỏi, Phật vừa nói thì chúng ta liền hiểu ngay.

Chẳng phải A Nan không hiểu đây là đại từ đại bi, cho nên giống như cách tu học này lợi ích chúng sanh, lợi ích chúng sanh là thiện nghiệp chúng ta phải học. Thật tại mà nói, chúng ta rời khỏi Kinh bản, rời khỏi giảng đường thì quên sạch hết. Bệnh cũ, tập khí cũ lại hiện tiền. Chẳng biết học, chẳng biết tu.

Tôi xin cử một ví dụ, chúng ta thường thường ở nơi công cộng, như chúng ta ở trong tiệm ăn, có những đồng tu quen biết, gặp được tôi nói thưa Pháp Sư hôm nay Ngài ăn gì, ăn thấy ngon hay không?

Nói những lời vô dụng này.

Họ chẳng ở nơi đây hỏi một ít Phật Pháp Pháp Sư Phật Pháp là gi?

Tuy họ biết nhưng rất nhiều người bên cạnh không biết, một khi tôi giảng cho anh nghe, anh xem. Bao nhiêu người nghe được, bao nhiêu người biết được, đây là cách học A Nan, thì là học biết ngay.

Không biết hỏi những thứ này đây là kẻ đáng thương. Tôi có một lần ở Thượng Hải đến Chùa Ngọc Phật để thăm Pháp Sư Chân Tuyền, đi đến Điện Thiên Vương, trong Điện Thiên Vương, tượng Tứ Đại Thiên Vương rất trang nghiêm, có rất nhiều đoàn thể du lịch ở đó, đi cùng tôi cũng có một vài vị cư sĩ. Cư sĩ ở Thượng Hải.

Tôi liền đem cách biểu pháp tượng trưng của bốn vị Thiên Vương này, tường tận tỉ mỉ giảng cho họ nghe, kỳ thật là giảng cho họ nghe nhưng đoàn du lịch đều nghe, đều chú ý ở đó lắng nghe đây gọi là cơ hội giáo dục, nhất định phải nắm lấy chớ nên bỏ qua nó dễ dàng.

Có thể giúp cho họ hiểu rõ cái biểu trưng nghệ thuật trong Phật Pháp, cái ý nghĩa chân chánh của sự tạo tượng trong Phật Môn, họ mới chẳng đến nỗi mê tín.

Cho nên A Nan biết được cơ hội giáo dục, rõ biết nên mới hỏi, hỏi cho mọi người nghe hai người họ đang đóng kịch Thế Tôn cùng A Nan đang đóng kịch một hỏi, một đáp chúng ta được lợi ích, là bởi chúng ta vô tri hỏi cũng hỏi không ra, chỗ này phải nên học tập, cho nên nói ở bất cứ nơi công cộng nào, nếu anh gặp được Pháp Sư.

Gặp được đại đức cư sĩ thì anh hỏi họ, thì anh hỏi họ Phật Pháp để cho kẻ khác nghe, chớ nên hỏi quá sâu, sâu thì sao?

Người ta nghe không hiểu, nên hỏi cạn cợt một chút khiến những người không học Phật Pháp để họ nghe thử tiếp dẫn họ, vậy thì là đúng. Chúng ta lại xem phẩm phía dưới.
 

QUANG MINH BIẾN CHIẾU

ĐỆ THẬP NHỊ
 

Phật cáo A Nan: A Di Đà Phật, oai thần quang minh, tối tôn đệ nhất. Thập Phương Chư Phật, sở bất năng cập, hai phẩm mười hai và mười ba này hiển thị chánh báo trang nghiêm.

Chánh báo là A Di Đà Phật Phật thân, chánh báo trang nghiêm chúng ta cũng thường thường niệm đến Quang Trung hóa Phật vô số ức Phật Quang chiếu khắp các địa phương, tức là có Phật. Quang Trung hóa Phật này. Đương nhiên vẫn là trong bốn mươi tám nguyện.

Bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười ba nói: Ngã tác Phật thời quang minh vô lượng, tuyệt thắng Chư Phật điểm này quả nhiên không sai, Thế Tôn vì chúng ta giới thiệu oai thần quang minh oai đức thần thông của Ngài, quang minh đều là tối tôn đệ nhất, chữ tối tôn đệ nhất là cùng với tất cả Chư Phật so sánh là tối tôn đệ nhất thập phương Chư Phật.

Sở bất nan cập biến chiếu đông phương hằng sa Phật sát chữ hằng sa tức là cát Sông Hằng, đây là dùng để tỉ dụ cát Sông Hằng quá nhiều, quá nhiều.

Chẳng cách chi tính được, hình dung số lượng nhiều của nó, hằng sa Phật sát. Nam tây bắc phương, tứ duy thượng hạ, cái này hợp lại tức là mười phương, cùng mười phương. Phương này giảng rất rõ ràng, còn chín phương còn lại thì rút gọn lại, chín phương còn lại hãy đều như nhau, phương phương đều là hằng hà sa số Phật sát.

Diệc phục như thị, đây là ánh sáng của A Di Đà Phật, đích thật tất cả Chư Phật đều chẳng thể sánh kịp. Nhược hóa đảnh thượng viên quang đây là thường quang của Phật, trên đỉnh đầu của Phật có ánh sáng tròn. Hoặc nhất nhị tam tứ do tuần hoặc thiên vạn ức do tuần, đây là hiển thị ra thường quang của chánh báo cũng là bất khả tư nghì.

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta năm xưa ở tại thế gian này. Xuất hiện tại thế gian của chúng ta.

Trong Kinh ghi chép ánh sáng của Phật là một do tuần, một do tuần là bao lớn?

Tám thước là một do tuần, ánh sáng vòng tròn của Phật là tám thước, có ánh sáng như vậy. Thật tại mà nói, trên thân Phật có ánh sáng, ánh sáng của Phật rõ ràng, chúng ta mỗi người trên thân đều có ánh sáng, những người luyện về khí công họ nhìn ra được, họ gọi là khí, Phật Pháp chúng ta gọi là quang, vả lại mỗi người ánh sáng này lớn nhỏ khác nhau, màu sắc cũng khác nhau.

Cho nên môn khí công xem người, xem trạng huấn thân thể của người họ từ trên đây mà xem. Vậy phàm là người học khí công trước hết phải tu thanh tịnh tâm, tâm không thanh tịnh thì anh không thấy được, tâm thanh tịnh thì thấy được, cho nên người được tịnh thấy được, người có tâm thanh tịnh thấy được.

Nếu như ánh sáng của anh màu sắc không tốt là sám hoặc tối thì thân thể anh có bệnh, nếu như thân thể của anh cường tráng thì ánh sáng rất rõ ràng, rất sáng sủa. Cho nên họ có thể thấy thân thể của anh vả lại là mỗi một bộ phận của ánh sáng khác nhau, cho nên họ biết được anh chỗ nào có bệnh, đây chẳng phải là mê tín.

Ánh sáng của Phật là trăm ngàn vạn do tuần điều này thì bất khả tư nghì. Điều này đích thật chẳng phải Chư Phật khác có thể sánh được, những vị Phật khác quý vị từ trong Kinh có thể thấy được, hoặc một hai ba bốn do tuần. Điều này có, đây là Phật Quang.

Chư Phật Quang minh, Phật chiếu nhất nhị Phật sát, câu chiếu nhất nhị Phật sát này tức là bổn thổ của Ngài, một vị Phật Giáo hóa chúng sanh là một cái tam thiên đại thiên thế giới gọi là một Phật sát, ánh sáng của Ngài nhất định chiếu đến.

Hoặc chiếu bá thiên Phật sát, nguyện lực của Phật rộng lớn, chẳng những chúng sanh Quốc Độ này của chính Ngài Ngài phải độ mà tha phương thế giới chúng sanh Ngài cũng phải độ. Vậy thì ánh sáng của Ngài lớn rồi. Lớn đến có thể chiếu đến trăm ngàn Phật sát.

Duy A Di Đà Phật, duy chỉ có A Di Đà Phật Quang minh phổ chiếu, vô lượng vô biên vô số Phật sát, quý vị phải nghi nhớ. Phật tại nhân địa, Thế Gian Tự Tại Vương Phật đã từng nói qua với Ngài, hai trăm mười ức Chư Phật sát độ thanh tịnh trang nghiêm chi sự vả lại Ngài đều thấy qua.

Hai trăm mười ức là biểu trưng cũng là đại biểu cứu cánh viên mãn. Nói một cách khác, tận hư không biến pháp giới, sở hữu tất cả Chư Phật sát độ A Di Đà Phật đều từng đến.

Thế giới này của chúng ta đương nhiên Ngài cũng đã đến qua cho nên ánh sáng của Ngài Ngài đã từng đến qua thì ánh sáng của Ngài nhất định cũng đều chiếu đến, duy chỉ có ánh sáng của Di Đà là tận hư không biến pháp giới một Phật sát đều chẳng thể sót mất.

Chư Phật Quang minh, sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công đức, đại tiểu bất đồng. Phật tại chỗ này thuyết minh tại sao Phật Quang có lớn nhỏ khác nhau. Khi đã thành Phật rồi thì Phật Phật đạo đồng, trí tuệ thần thông năng lực của Phật cả thảy đều bình đẳng.

Tại sao Phật Quang khác nhau, chúng ta thấy được Phật Quang tại sao không bình đẳng?

Điều này có nguyên nhân.

Là lúc đầu tiên nhất Ngài mới học Phật, Ngài phát cái nguyện khác nhau, có những vị Phật ở nhân địa phát cái nguyện chẳng lớn: Thấy cái tam thiên đại thiên thế giới này ta chỉ muốn giúp nhóm chúng sanh này, chỉ muốn độ họ thì sau khi thành Phật ánh sáng của Ngài chỉ lớn cỡ đó.

Điều này chúng ta từ trong Kinh thấy được, nhân địa của A Di Đà Phật, nguyện của Ngài và người khác chẳng giống nhau, nguyện của Ngài lớn, Ngài phải phổ độ chúng sanh phải độ hết tận hư không pháp giới, tất cả chúng sanh.

Nguyện của Ngài là phát cách này. Không phải một cái thế giới hai cái thế giới, một cái Phật sát hai cái Phật sát, một ngàn cái Phật sát, một vạn cái Phật sát…

Ngài chẳng phải phát cách này, cho nên cái nguyện này hi hữu. Chí tác Phật thời, các tự đắc chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế, cho nên sau khi thành Phật, cảnh giới này của Ngài tự nhiên hiện ra, chẳng phải trong tâm Ngài nghĩ tưởng, chẳng phải, Ngài thích làm như vậy, chẳng phải vậy, là tự nhiên thành tựu, tức là nói cái quả ấy nhất định là ứng với cái nhân này, nhân quả nhất định tương ưng.

Tất cả Chư Phật, giả như họ muốn phóng quang chiếu khắp pháp giới, họ có cái năng lực này, nếu chẳng có năng lực này thì đạo của Phật đều chẳng đồng, Phật có năng lực này nếu Ngài chẳng có ý đi phóng quang, vậy thì ánh sáng của Ngài tự nhiên hiển lộ ra, cùng nhân địa của Ngài có thể tương ưng. Nhân địa của Di Đà cùng nhân địa của Chư Phật khác nhau, cho nên quả địa tự nhiên hiển hiện, Ngài thì là khác nhau.

A Di Đà Phật, quang minh thiện hảo, thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên ức vạn bội, trong câu này chúng ta đặc biệt phải chú ý, Phật Quang thiện hảo nhật Nguyệt Quang minh, tuy là tốt nhưng bất thiện, anh xem.

Ban ngày, mặt trời lớn thế đó rọi lên trên thân khá nóng, tuy ánh sáng nhưng bất thiện có thể đem đến cho chúng ta rất nhiều phiền não, mắt chúng ta nhìn mặt trời như chích vào con mắt, có thể tổn thương mắt. Tuy có ánh sáng mà bất thiện.

Vậy còn Phật Quang thì sao?

Là thiện. Chẳng những anh tiếp xúc, thấy thanh lương thoải mái, vui vẻ vả lại còn có thể tiêu nghiệp chướng, khai trí tuệ, cho nên đây mới là thiện, cho nên chữ này quan hệ rất lớn. Phía dưới, chúng ta xem Thế Tôn đối với A Di Đà Phật tán thán quả thật đến chỗ cùng cực.

Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương, quý vị nếu như có thể đem hai câu nói này của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ghi vào lòng, nếu anh niệm A Di Đà Phật, người ta khuyên anh niệm A Di Đà Phật, tại sao chẳng học thứ khác?

Tại sao chẳng niệm Bồ Tát khác?

Anh chỉ cười thôi. A Di Đà Phật là Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương. Cứ bằng vào sự thật này thì tôi hết lòng để niệm A Di Đà Phật, các vị Phật khác thì tôi không cần niệm nữa, tôi niệm Phật trung chi vương. Còn quý vị niệm đó là Phật trung lão bá tánh, còn tôi niệm là Phật trung chi vương, điều này phải biết.

Đây là sự siêu thắng của Tịnh Độ, thật sự bất khả tư nghì. Chúng ta phải nói ra cho được.

Thị cố Vô Lượng Thọ Phật, diệc hiệu Vô Lượng Quang Phật, diệc hiệu Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đẳng Quang Phật, diệc hiệu Trí Huệ Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Giải Thoát Quang, An ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghì Quang.

Đây đều là biệt hiệu của A Di Đà Phật, tại sao nhiều như vậy?

Là để hiển quang trung chi đức. Phía trước câu quang minh thiện hảo, chữ thiện đó là tổng thuyết, chưa giảng kỹ cho anh.

Rốt cuộc chữ thiện hảo thì hảo đến cỡ nào?

Phía dưới mười hai cái danh hiệu thì là đem chữ thiện này hiển thị ra. Vậy do đây có thể biết Thế Tôn đối với Ngài tán thán Quang trung cực tôn chẳng phải tùy tiện nói.

Mười hai cái danh hiệu này, hiển thị ra ánh sáng của Đức Di Đà đích thực là Cực Tôn, là Chư Phật không thể sánh được. Nói ra mười hai cái danh hiệu.

Vô Lượng Quang, chữ lượng là hạng lượng, ánh sáng của A Di Đà Phật chẳng có hạn lượng, chẳng giống như Chư Phật, Phật Quang chí chiếu một hai Phật sát, chiếu trăm ngàn Phật sát là có hạn lượng, còn ánh sáng của A Di Đà Phật thì chẳng có hạn lượng, tận hư không biến pháp giới, không nơi nào không chiếu, không chỗ nào không chiếu, đây là vô lượng.

Đương nhiên bên trong quang đều là tượng trưng cho trí tuệ. Vô Lượng Quang cũng tức là nói rõ trí tuệ của Đức Di Đà là vô lượng. Diệc Hiệu Vô Biên Quang, biên là biên tế, Phật tâm bình đẳng, từ bi bình đẳng. Lấy pháp bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật.

Biên tế giới tuyến tất cả giới tuyến thảy đều chẳng có, giải thoát bình đẳng, vạn pháp nhất như, ý nghĩa của Vô Biên Quang là chẳng có bờ mé, chẳng có giới tuyến.

Các Chư Phật Như Lai khác như Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta giáo hóa chúng sanh, thật ra chúng ta chứng quả là có đẳng cấp, có người chứng tiểu thừa Sơ quả, Tứ quả La Hán, Bích Chi Phật quả, còn có Tạng Thông Biệt Viên, đây là Tông Thiên Thai.

Tông Thiền Thủ thì có, tiểu thỉ chung đốn viên, đây đều là có giới tuyến, khi thành Phật rồi còn có Tạng Giáo Phật, Tông Giáo Phật, Viên Giáo Phật đều chẳng giống nhau, duy chỉ độc nhất có Di Đà là bình đẳng thành tựu.

Tứ Quả, tứ tướng của tiểu thừa, năm mươi mốt giai cấp của đại thừa, hoàn toàn đều chẳng còn nữa. Phương pháp ấy của Ngài, quả báo ấy của Ngài, một là tất cả, tất cả là một, cái này là vô biên tế quang.

Cái thứ ba là Vô Ngại Quang Phật, ngại là chướng ngại, quyết định chẳng có chướng ngại, chướng ngại là từ đâu đến?

Chướng ngại là từ phân biệt chấp trước mà đến, có phân biệt có chấp trước thì có chướng ngại, lìa khỏi tất cả phân biệt chấp trước thì tâm được tự tại thì chẳng có chướng ngại. Trong tâm chẳng có giới tuyến, đây là Vô Ngại Quang, nếu lấy Thiền Tông mà nói thì đây đã đạt đến chỗ cùng cực.

Vô Đẳng Quang Phật, đẳng là cùng Ngài ngang nhau, Ngài vượt qua tất cả Chư Phật, tất cả Chư Phật đều không thể bằng Ngài, bất luận là nhân hành, quả hải đều vượt cả Chư Phật, chúng ta trong phần Kinh phía trước thảy đều thấy cả.

Diệc Hiệu Trí Tuệ Quang, Thường Chiếu Quang, cái này dễ hiểu, Chư Phật đều do quyền thực khai trí, Di Đà khai trí, so với Chư Phật lại càng viên mãn hơn, càng cứu cánh hơn. Thường Chiếu Quang, là tịch mà thường chiếu.

Thanh Tịnh Quang là chiếu mà thường tịch. Thanh tịnh bình đẳng. Trong đại thừa Phật Pháp, chữ chiếu và tịch là cương lĩnh tu hành của Bồ Tát. Chúng ta phải thể hội cho thật sâu. Chiếu là dụng.

Chúng ta lục căn đối với cảnh giới lục trần bên ngoài đây là chiếu, tại sao không dùng chữ kiến?

Không dùng chữ thính. Bởi vì nói kiến, nói thính, nói văn đều lạc vào trong tâm ý thức. Anh có phân biệt, có chấp trước. Chữ chiếu này giống như tấm kính, kính chiếu bên ngoài bên trong nó chiếu rất rõ ràng, nó chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước.

Cho nên Phật dạy chúng ta, chúng ta dụng tâm phải giống như tấm kính dùng tâm như kính. Lục căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, quán chiếu, chẳng có phân biệt chẳng có chấp trước, rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch.

Cái tâm này là định, tâm là thanh tịnh, tâm thanh tịnh là tịch, tịch tức là công phu, còn chữ chiếu tức là trí tuệ, cho nên chúng ta trong đời sống ngày thường, người chân chính biết tu hành, trong cuộc sống ngày thường trên sự thì là Lục độ, sáu điều cương lĩnh, trên lý là tự mình được thanh tịnh tâm, được trí tuệ bát nhã, trên lý tức là thiền định bát nhã. Chúng ta phải được cái thọ dụng này.

Tâm đã thanh tịnh rồi, đã định rồi đây thật là đáng quý. Vậy anh muốn độ chúng sanh, anh muốn giúp đỡ tất cả chúng sanh, phải từ tịch rồi lại chiếu, lại khởi dậy tác dụng. Đó là Bồ Tát. Quang là tịch chẳng chiếu, đó là thành tiểu thừa A La Hán, tự liễu mà chẳng giúp đỡ kẻ khác.

Cho nên tịch mà thường chiếu là Phật Bồ Tát, chiếu mà thường tịch là chúng ta hiện nay phải dụng công, chúng ta phải học tập, đây đều là từ trên cương lĩnh tu học mà nói.

Hoan Hỉ Quang, Phật Quang có thể khiến tất cả chúng sanh, sanh hoan hỷ tâm, chẳng những sanh hoan hỷ mà còn sanh tín tâm, sanh nguyện tâm, thì cái quang này mới thiện giải thoát quang quang này có thể tiêu nghiệp, có thể tiêu tội, có thể khiến tất cả chúng sanh được đại tự tại, đây là giải thoát quang. An ổn quang đây cũng là tất cả chúng sanh chỗ hy vọng mong cầu, mơ ước, hâm mộ.

Làm thế nào mới có thể được sự an ổn chân chánh?

Thật tại mà nói trong tam giới này chẳng có được, trong lục đạo chẳng có, Phật nói tam giới vô an, chẳng có được, ở trong tam giới muốn được an ổn, đó là nhất định phải khế nhập cảnh giới bát nhã. Như trong Kinh Kim Cang chỗ nói, anh đích thật lìa được bốn tướng, lìa bốn kiến rồi, thì được.

Ở trong tam giới cũng được an ổn. Tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tất cả thảy đều lìa khỏi hết, đều không còn nữa, cách này thì được, bốn tướng chỉ cần một tướng chưa lìa khỏi, thì cái an ổn đó chỗ là hữu danh vô thực, quyết định chẳng có được. 

Siêu Nhật Nguyện Quang, cái này dễ hiểu, phía trước nói: Thắng hơn ánh sáng của nhật nguyệt ngàn ức vạn lần.

Bất Tư Nghì Quang câu này là tổng kết, thần quang của Di Đà, bất khả tư nghì.

Như thị quang minh, phổ chiếu thập phương, nhất thiết thế giới, câu nói này chẳng sai, một thế giới cũng chẳng sót, là tận hư không biến pháp giới, đây là chứng thật, phía trước chỗ nói, hai trăm mười ức là biểu trưng chẳng phải con số, nếu là con số thì hai trăm mười ức chẳng nhiều. 

Cái này nói Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đến địa phương chúng ta đây, khoảng giữa có mười vạn ức Phật quốc độ, vậy ánh sáng của Phật chỉ có hai trăm mười ức, thì vẫn cách quá xa, so với mười vạn ức ít đi quá nhiều.

Vậy thì Phật Quang chẳng tới được chúng ta bên đây, đó là biểu trưng, đó chẳng phải con số, chỗ này đã hiển thị ra rồi, đây là chứng minh phổ chiếu mười phương tất cả thế giới, một thế giới cũng chẳng sót, đều chẳng sót mất.

Ký hữu chúng sanh, ngộ tư quang giả, đây là nói chúng sanh ở mười phương thế giới, nếu là gặp ánh sáng của A Di Đà Phật cấu diệt thiện sanh, cấu là phiền não ô nhiễm thì đều tiêu diệt, thiện căn sanh trưởng.

Vậy thì chúng ta phải hỏi: Tận hư không biến pháp giới đều ở trong áng sáng của A Di Đà Phật, tại sao tôi chẳng thấy?

Phật ngày ngày đều chiếu soi tôi, phiền não tội nghiệp của tội nghiệp cứ từng ngày, từng ngày gia tăng chẳng có giảm thiểu, đây là nguyên nhân gì vậy?

Thật tại mà nói, Phật Quang là đang chiếu soi, chúng ta chẳng có tiếp nhận, chúng ta chẳng cần. Ánh thái dương chiếu rọi anh, anh nhất định lấy cái chiếc dù để che khuất, chẳng để cho nó chiếu vào, tình trạng chúng ta là như thế, chẳng chịu tiếp nhận, chẳng phải Phật Quang chẳng chiếu rọi anh, anh chẳng chịu tiếp nhận.

Vậy thì Phật Quang ở đâu?

Phía trước đã từng nói qua với quý vị, chỗ sở tại của Phật hiệu, Kinh Điển tức là chỗ Phật Quang chiếu rọi, tức là có Phật. 

Nghe được một câu A Di Đà Phật này chẳng để trong tâm, coi như cơn gió thoáng qua tay, anh chẳng chịu tiếp nhận. Chỗ sở tại của Kinh Điển, chẳng chịu đi đọc tụng, chẳng chịu thâm nhập đi nghiên cứu, thì là tự mình làm chướng ngại chính mình.

Chẳng phải Phật Quang chẳng chiếu đến anh, đây chính là chính mình có nghiệp chướng rất sâu, rất sâu dày. Kháng cự lại ánh sáng của Phật.

Đây cũng là trong Phật Pháp thường nói: Tâm Phật chúng sanh tâm vô sai biệt là nói về lực lượng này. Lực lượng của Phật, nghiệp lực của chúng sanh tâm lực của chúng sanh là bằng nhau tâm vô sai biệt, có thể thấy được, cái nghiệp lực này bất khả tư nghì.

Phía trước nói đến nghiệp lực bất khả tư nghì chúng ta hiểu được đạo lý này, hiểu được chân tướng của sự thật, chúng ta có thể đem tâm lực của chính mình cùng Phật Quang của Phật đem lực lượng này tập hợp trở lại, thì có thể chống lại nghiệp lực, hai lực lượng tập hợp lại, thì có thế chống cự một nghiệp lực.

Tâm lực của chúng ta cùng nghiệp lực của chúng ta tập hợp trở lại thì đem lực lượng đề kháng của Phật che lấp mất, là đạo lý như vậy.

Chúng ta ngày nay gặp được A Di Đà Phật, gặp được Kinh Vô Lượng Thọ sanh được tâm hoan hỷ, có thể lý giải được, dù rằng không thể hoàn toàn lý giải, chúng ta có thế lý giải phần nào, quả nhiên chịu y giáo phụng hành, quyết định là cấu diệt thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn, biểu hiện trong cuộc sống ngày thường, biểu hiện ôn hòa, từ bi không giống như trước kia cang cường khó giáo hóa bây giờ hiển thị ra là mềm dẻo, từ bi nhu hòa, với trước kia khác hẳn.

Cho nên thân tâm nó thật có chuyển biến. Nhược tại tam đồ, cực khổ chi xứ, đây là cử một thí dụ, thật tại mà nói cũng đều là sự thật, nếu như đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Cực khổ tức là địa ngục đạo.

Kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức, chúng sanh ở địa ngục có thể thấy được Phật Quang chăng?

Có thể thấy, địa ngục là nơi tội nghiệp cực trọng chỗ báo được, ở trong địa ngục loại chúng sanh nào có thể gặp được Phật Pháp, là người trong đời quá khứ niệm Phật, người trong đời quá khứ đều học Phật cũng có thiện căn rất sâu dày, mà trong đời này mê hoặc điên đảo.

Làm sai rất nhiều việc, đọa địa ngục đều bất hạnh mà đọa địa ngục, cho nên Địa Tạng Bồ Tát ở tại địa ngục độ chúng sanh độ loại chúng sanh nầy nếu như họ chẳng có thiện căn, trong đời quá khứ chẳng có học Phật, chẳng có thiện căn Địa Tạng Bồ Tát đối với họ cũng chẳng biết làm gì được.

Tuy Địa Tạng Bồ Tát ở trong địa ngục, những người này chẳng thấy nhìn chẳng thấy Địa Tạng Bồ Tát, duy chỉ có người niệm Phật với thiện căn thâm hậu, một niệm sai lầm, lúc đọa vào địa ngục, khi họ ở trong địa ngục một niệm hồi tâm, biết được mình làm sai rồi, họ chẳng cần có ý niệm này thì họ sẽ thấy được Địa Tạng Bồ Tát.

Địa Tạng Bồ Tát dạy họ niệm Phật họ liền tiếp xúc với áng sáng của A Di Đà Phật thì cái khổ của họ có thể chấm dứt, thì là đình chỉ. Mạng chung giai đắc, giải thoát, vậy nhóm ác đạo chúng sanh này, người ác ở nhân gian vãng sanh đều là thuộc về sám hối vãng sanh, họ thật sự biết mình đã sai rồi, thật lòng sám hối, sửa lỗi tu thiện, cầu sanh Tịnh Độ.

Họ lấy công đức gì vậy?

Tức là cái tâm sám hối, cái tâm sửa lỗi, đó tức là công đức, đem cái này hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ. Một niệm mười niệm cũng quyết định được sanh. Đây tức là niệm thứ mười tám của A Di Đà Phật.

Vậy những người này, sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì là phẩm vị gì?

Trong Quán Kinh nói, Phàm Thánh đồng cư độ, hạ hạ phẩm vãng sanh, ác đạo chân chánh địa ngục đạo vãng sanh. Nếu như tạo tác tội cực trọng, tương lai nhất định đọa a tỳ địa ngục.

Tuy nhiên, hiện nay phước của họ vẫn chưa hết, vẫn chưa đọa, vào lúc lâm chung, lúc này gặp được thiện tri thức, thật sự hối lỗi, sám hối vãng sanh thì phẩm vị ấy không nhất định.

Chúng ta trong Quán Kinh thấy được Vua A Xà Thế hại cha ông ta, hại mẹ ông ta giết cha hại mẹ cùng Đề Bà Đạt Đa cấu kết phá hòa hợp Tăng, xuất Phật thân huyết, tội thập ác ngũ nghịch, ông ta thảy đều tạo hết, thì quả báo của người này tất phải đọa a tỳ địa ngục.

Đề Bà Đạt Đa đời đời đọa địa ngục, còn Vua A Xà Thế lúc lâm chung sám hối biết mình đã sai, đau lòng để sám hối cầu nguyện vãng sanh, ông ta rất may mắn ông chẳng đọa địa ngục, ông ta vãng sanh Cực Lạc Thế Giới, vậy được phẩm vị gì?

Thật sự bất khả tư nghì. Phật nói với chúng ta, ông là Thượng Trung Phẩm vãng sanh.

Thượng Thượng Phẩm, Thượng Trung Phẩm vãng sanh, đây cũng cho chúng ta một khải thị rất lớn, chúng ta đối với những người làm ác thông thường không thể coi rẻ họ, tại vì sao?

Chúng ta thật lòng niệm Phật tương lai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, còn họ tuy tạo tội nghiệp, lúc lâm chung, tâm sám hối nếu nặng thì phẩm vị vẫn ở trên chúng ta, chúng ta vẫn chẳng bằng họ, cho nên điều này không thể coi rẻ.

Cho nên vãng sanh chúng ta biết được có hai loại: Một loại là bình thường niệm Phật tích công lũy đức, dùng phương thức này mà vãng sanh. Một loại là tạo tội nghiệp lúc lâm chung sám hối mà vãng sanh, cho nên lực lượng sám hối này, cũng rất bất khả tư nghì. 

Nhược hữu chúng sanh, văn kỳ quang minh, oai thần, công đức, nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn. Tùy ý sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc. Đây cũng là thuộc về niệm Phật. Có thể thấy niệm và xưng khác nhau. Xưng là tự trong miệng xưng, xưng danh. Còn chúng ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật, niệm là trong tâm thật có.

Nhược hữu chúng sanh, giả như có người. Văn kỳ quang minh oai thần công đức ba thứ này đều ở trong Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và Phật thuyết A Di Đà Kinh đều ở trong ba loại Kinh này.

Ba Kinh này nội dung nói đến tức là cái này, đây là văn kỳ văn tức là văn Kinh, sau khi nghe rồi đương nhiên anh được lòng tin, nếu anh chẳng tin thì anh chẳng tu hành, anh nhất định phải tin.

Sau khi tin rồi anh nhất định phải học, chịu tu đây mới gọi là niệm Phật, tại sao?

Vì trong tâm thật có, nhiên hậu mới xưng thuyết. Xưng thuyết tức là nói cho người khác nghe, đây là xưng thuyết tam phúc. Sau cùng là đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả. Khuyên kẻ khác tự hành hóa tha. Đây là ý nghĩa này, tự hành hóa tha.

Chí tâm bất đoạn, chí tâm: Là tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm từ bi. Bất đoạn là tương tục chẳng dứt, tất cả thời, tất cả chỗ. Chúng ta thường nói phải biết cơ hội giáo dục, nắm lấy cơ hội này đem Phật pháp giới thiệu cho tất cả đại chúng, chúng ta quả nhiên làm được như vậy thì cầu nguyện vãng sanh nhất định được sanh, cầu sanh trì quốc.

Cho nên ý nghĩa trong Kinh Văn chúng ta phải hiểu rõ, phải biết cách nào để làm, bởi vì văn tự vô cùng đơn giản, ý nghĩa vô cùng viên mãn. Chúng ta lại xem tiếp phẩm phía dưới.
 

THỌ CHÚNG VÔ LƯỢNG

ĐỆ THẬP TAM
 

Tuổi thọ của Phật vô lượng, chúng sanh có phước, chúng sanh có nơi nương tựa có thể thường thường theo bên mình Phật, nguyện lực của Phật cũng là vô lượng vô biên, cho nên có thể rộng nhiếp pháp giới tất cả chúng sanh. Chúng ta xem Kinh Văn.

Phật ngữ A Nan: Vô Lượng Thọ Phật thọ mạng trường cửu, bất khả xưng kế. Trong đoạn Kinh Văn này ý nghĩa của nó không sâu, rất rõ ràng, rất dễ hiểu.

Tuy nhiên nó đích thật có dụng ý rất sâu. Chúng ta phải từ phương diện này để thể hội, thì tự nhiên có thể sanh khởi cái tâm hâm mộ mơ ước chẳng được rất nhanh chóng là được chứng đắc, thọ mạng trường cửu bất khả xưng kế.

Thích Ca Mâu Ni Phật cũng nói với chúng ta, A Di Đà Phật lần này ở tại Tây Phương Cực Lạc Thế Giới làm Phật là ứng hóa, là giống như Thích Ca Mâu Ni Phật ba ngàn năm trước đến với thế gian này của chúng ta chẳng khác, là ứng hóa.

Vậy thì ứng hóa thân là có thọ mạng, cái ứng hóa thân này của Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế gian này của chúng ta là tám mươi năm, trụ thế tám mươi năm, A Di Đà Phật tại Cực Lạc Thế Giới cũng là ứng hóa.

Tuy nhiên sự ứng hóa của Ngài cùng sự ứng hóa của tất cả Chư Phật có khác, Ngài ngay cả quốc độ cũng là ứng hóa, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới vốn là chẳng có là do Ngài biến hiện ra, ngay cả quốc độ cũng là do Ngài biến hóa, cách này thì Chư Phật khác chẳng có.

Tất cả Chư Phật khác tùy theo nghiệp lực của chúng sanh mà biến hiện lại thêm vào nguyện lực của Phật. Trước tiên có nghiệp của chúng sanh sau mới có nguyện lực của Phật. Tây Phương Thế Giới là trước tiên có nguyện lực của A Di Đà Phật nhiên hậu là tịnh nghiệp của chúng sanh là như vậy mà có.

Cho nên tình hình này là hoàn toàn khác nhau, vậy thì nguyện của Phật lớn thế đó, phải độ tận hư không biến pháp giới hữu duyên chúng sanh, khiến chúng sanh nếu chưa độ tận thì Phật không thể đi. Điểm này quý vị đồng tu nhất định phải biết, Phật chưa độ hết số chúng sanh này Phật chưa độ hết thì Phật chưa thể đi.

Vậy chúng sanh thế nào gọi là độ tận?

Những ai có duyên thì được độ những ai không có duyên thì không tính có duyên thì được độ.

Vậy thì chúng ta phải hỏi những người nào cùng A Di Đà Phật có duyên vậy?

Phàm là ai nghe được danh hiệu của A Di Đà Phật đều có duyên, vậy là độ rồi, anh xem.

Hiện nay tín đồ Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo đều nghe được cả, phải không?

Cho nên A Di Đà Phật trụ thế phải rất lâu chờ đến khi họ hồi tâm chuyển ý, người người được độ thì Ngài mới thị hiện nhập Niết Bàn, tận hư không biến pháp giới đều đang ở đó tuyên dương, đều đang giới thiệu cho đại chúng, càng giới thiệu càng nhiều cho nên thọ mạng của A Di Đà Phật càng lúc càng dài là đạo lý như vậy.

Một người niệm Phật chưa vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thành Phật thì A Di Đà Phật không thể nhập Niết Bàn. Chúng ta niệm Phật nên yên tâm dù kiếp này không thể vãng sanh, song đời đời, kiếp kiếp chủng tử Kim Cang này vô lượng vô biên kiếp sau vẫn phải thành thục, thành thục thì A Di Đà Phật vẫn phải chờ ta đi.

Điều này hôm qua đã nói qua với quý vị đây là cùng A Di Đà Phật có duyên, anh đã từng niệm qua một câu A Di Đà Phật thì anh cùng Ngài có duyên, còn chưa niệm qua thì sao?

Chỉ thấy được sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật mắt nhìn vào thì cũng có duyên. Cho nên ngoài cửa chúng ta hàng chữ Nam Mô A Di Đà Phật lớn như vậy, phàm những ai đi ngang qua đều phải nhìn một cái đều có duyên rồi cho nên những ai có duyên đều phải được độ.

Thọ mạng này trường cửu thì thật sự không thể xưng tính được, chúng ta từ trên những sự và lý này mà quán sát thì biết được thọ mạng của Ngài đều đó thật sự chẳng có cách chi tính toán được.

Hựu hữu vô số Thanh Văn chi chúng học sinh của A Di Đà Phật quá nhiều quá nhiều. Trong số học sinh này chỉ cử ra một loại Thanh Văn, là loại này. Tây Phương không có Thanh Văn, loại Thanh Văn này trên thực tế tức là nói nhóm học sinh tại Tây Phương Thế Giới kiến tư phiền não đoạn rồi, trần xa vô minh vẫn chưa phá.

Là chỉ cho loại học sinh này không bao gồm những Bồ Tát đã phá vô minh, cũng không bao gồm những phàm phu vẫn chưa kiến tư đoạn phiền não, những hạng này đều không tính, ba loại này chỉ nói một loại Chúng Thanh Văn này vô số, số lượng này cũng là vô số.

Thần trí đỗng đạt, oai lực tự tại, năng ư chưởng trung, trì nhất thiết thế giới, thần thông đạo lực này làm cách nào để hiển thị?

Làm sao để hình dung?

Cũng cử ra một thí dụ, trong bàn tay của A Di Đà Phật có thể nắm giữ mười phương tất cả Chư Phật sát độ, Ngài có cái năng lực này, chúng ta thường thường biết được, Quán Thế Âm Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt, năng lực ấy quá rộng lớn.

Ngàn tay ngàn mắt nếu nắm giữ Chư Phật sát độ ngài chẳng làm được, một cánh tay nắm giữ một cái thì chỉ có thể giữ một ngàn cái Phật sát, vẫn chẳng đạt đến tất cả thế giới, thì anh mới biết được thần lực của A Di Đà Phật vĩ đại biết mấy. Phía dưới có một tỉ dụ hiển thị thọ mạng lâu dài và cái nhiều của nhân số.

Ngã đệ tử trung, Đại Mục Kiền Liên, thần thông đệ nhất, chữ ngã là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng, Thích Ca Mâu Ni Phật nói trong số học trò của ta Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, đây là mười đại đệ tử của Phật.

Kỳ thật nhóm đệ tử này đều là Cổ Phật và Đại Bồ Tát tái lai thị hiện là đến để diễn kịch. Thích Ca Mâu Ni Phật đến để đóng vai chánh còn họ đến đóng vai phụ. Giúp đỡ Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn thành nhiệm vụ độ hóa chúng sanh này. Họ đều đến để thị hiện. Kỳ thật mỗi một vị đức năng đều là bình đẳng.

Xá Lợi Phất trí tuệ đệ nhất, Xá Lợi Phất thần thông chẳng bằng Mục Kiền Liên sao?

Chẳng phải đâu. Là như nhau. Một vị chỉ có thể đại biểu cho một thứ tượng trưng thì là dễ dàng, kỳ thật trí tuệ đức năng của họ đều là viên mãn, nhất là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên hai người này là Cổ Phật tái lai, sớm đã thành Phật rồi, hiện tại Thích Ca Mâu Ni Phật phải dùng Phật thân độ hóa chúng sanh, họ đến để làm đệ tử của Phật cùng với A Nan ở phía trước như nhau, là cố ý hỏi một hỏi một đáp để đóng kịch, là ý nghĩa này.

Thần thông đệ nhất, tam thiên đại thiên thế giới, sỡ hữu nhất thiết, tinh túc chúng sanh, chỗ này chúng ta phải chú ý tinh túc chúng ta ngày nay gọi là tinh cầu, sở hữu tất cả tinh cầu, chúng sanh trong tinh cầu, quý vị phải ghi nhớ trong ba ngàn đại thiên thế giới sở hữu tinh cầu, chúng sanh trong tinh cầu là bao nhiêu?

Ư nhất trú dạ, tất tri kỳ số, Mục Kiền Liên Tôn Giả dùng hai mươi bốn giờ thì tính ra được.

Trong cái đại thiên thế giới này, đại thiên thế giới lớn cỡ nào?

Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói: Dải ngân hà chúng ta đây là một đơn vị thế giới, vậy ba ngàn đại thiên thế giới có bao nhiêu dải ngân hà?

Một trăm ức dải ngân hà, khoa học ngày nay của chúng ta vẫn không có biện pháp để đạt đến. Ngày nay nhà khoa học dùng phương pháp khoa học để quang sát trắc nghiệm, đại khái có đến mấy mươi dải ngân hà, một hai trăm dải ngân hà… chúng ta biết được, còn xa hơn nữa thì không biết. Một trăm ức dải ngân hà là một cái ba ngàn đại thiên thế giới.

Bên trong đó tất cả những tinh cầu, trong tinh cầu tất cả những chúng sanh năng lực của Mục Kiền Liên trong hai mươi bốn giờ thì đem đáp án này tính ra, thật là phi thường.

Chúng ta ngày này loại máy tính điện tử cũng chẳng làm được, tính chẳng ra. Thần thông của Đại Mục Kiền Liên đích thật vượt hơn các nhà khoa học, dụng cụ khoa học không làm được, chẳng bằng ông ta, lấy đây làm thí dụ.

Chúng ta lại xem tiếp giả như thập phương chúng sanh điều này thật là phi thường.

Mười phương vô lượng vô biên thế giới, trong cái thế giới này, tất cả chúng sanh tất thành Viên Giác đây là giả thiết không phải thật, đều đã thành Bích Chi Phật sánh với A La Hán còn cao hơn cấp giả thiết tất cả đều là chứng quả nhất nhất Duyên Giác, mỗi một Bích Chi Phật thọ vạn ức tế thọ mạng.

Không giống như Mục Kiền Liên, Mục Kiền Liên thị hiện thọ mạng rất ngắn cùng Thích Ca Mâu Ni Phật như nhau.

Giả như thọ mạng của họ đều là vạn ức tuổi thọ vạn ức tuế, thần thông giai như, năng lực thần thông thì giống như Đại Mục Kiền Liên chẳng khác, năng lực của Mục Kiền Liên có thể trong hai mươi bốn giờ, trong một trăm ức dải ngân hà tất cả chúng sanh của tinh cầu ông đều có thể tính ra được, có năng lực lớn như vậy.

Tận kỳ thọ mạng, tận kỳ thọ mạng là mỗi một người hết thọ mạng của họ là vạn ức tuổi, chẳng phải là hai mươi bốn giờ. Chẳng phải một ngày một đêm. Tận kỳ thọ mạng triệt kỳ trí lực tất cộng thôi toán cùng nhau chung lại để tính toán, một người tính không ra thì tất cả cùng chung lại mà tính.

Bỉ Phật hội trung, Thanh Văn chi số, thiên vạn phần trung, bất cập nhất phần, những người có thể tính ra được là Thanh Văn trong Cực Lạc Thế Giới của A Di Đà Phật trong ngàn vạn phần chưa đầy một phần. Một phần của ngàn vạn vẫn chưa đến… chúng ta biết được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới số đệ tử của A Di Đà Phật nhiều đến không thể xưng tính được, phía trước không thể xưng tính.

Chúng ta không thể tưởng tượng ra con số lớn cuối cùng không thể xưng tính tới trình độ nào?

Vừa nói cách này thì chúng ta có được một tí liễu giải, thật sự không thể xưng tính được. Thí như đại hải, dưới đây lại cử ra một tỉ dụ sâu rộng vô biên. Ngoài đảo Tân Gia Ba là biển lớn, cách này chúng ta rất thân thiết, tỉ dụ này rất thân thiết, biển lớn thì quá lớn, quá lớn.

Thiết thủ nhất mao, chữ nhất mao này là lông trên thân chúng ta, chúng ta nhổ một sợi lông, lông rất nhỏ lại đem sợi lông chẻ thành một trăm phần là một phần trăm, cái đó có thể phải dùng kính hiển vi để xem phải không?

Nhục nhãn chúng ta nhìn không thấy. Toái như vi trần đây là đem một sợi lông chẻ thành một trăm sợi, vậy thật giống như là vi trần.

Dĩ nhất mao trần, chiêm hải nhất đích đem lông mao trần đó nhúng vào trong nước biển một cái thì trên lông có một giọt nước, giọt nước này e rằng nhục nhãn chúng ta không thấy được, e rằng phải dùng kính hiển vi để xem, vậy thì Phật nói giọt nước này cùng với nước biển so sánh, cái nào nhiều hơn?

Dĩ nhiên là biển nhiều rồi, còn cần phải nói hay sao.

A Nan! Bỉ Mục Kiền Liên, đẳng sở tri số giả, câu bỉ Mục Kiền Liên là thí dụ tức là mười phương chúng sanh đều thành Duyên Giác, năng lực đều giống như Mục Kiền Liên, thọ mạng là vạn ức tuổi, mọi người cùng nhau để tính đếm số người của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có thể tính ra được đó thì giống như nước trên lông mao trần vậy, còn cái chưa đếm ra được thì giống như nước trên biển lớn. Đây là cái tỉ dụ thứ hai.

Đây là số người của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới trong ba hạng chỉ cử ra một hạng, cử Thanh Văn, tại sao vậy?

Vì ba hạng người này Thanh Văn ít nhất, Bồ Tát nhiều nhất. Giống như chúng ta đới nghiệp vãng sanh vậy cũng là nhiều nhất.

Cử ra cái tỉ dụ tối thiểu, rồi lại phải thêm vào người đới nghiệp vãng sanh, lại thêm vào Bồ Tát chúng vậy họ làm sao có thể tính ra được?

Điều này thật tại bất khả tư nghì.

Chúng ta từ chỗ này để thể hội, để suy nghĩ xem?

Đoạn phía dưới này, ngay cả thọ mạng thảy đều bao quát tất cả trong đó bỉ Phật thọ lượng, cũng là dài lâu, không thể xưng tính được cập Chư Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Nhân vừa rồi cử ra thí dụ Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Nhân chỉ nói Thanh Văn không có nói Bồ Tát, không có nói Thiên Nhân bởi vì Bồ Tát, Tiên Nhân thì nhiều, Thanh Văn.

Chỉ cử ra, ít nhất. Giống như tỉ dụ phía trước thọ lượng diệt nhĩ đây là thọ lượng Vô Lượng Thọ, tuy nói là vô lượng của hữu lượng trong tâm lượng tâm mục của chúng ta thật sự là vô lượng, cái hữu lượng này ai có thể tính ra được?

Duy chỉ có Chư Phật có thể biết, Bồ Tát trở xuống đều chẳng biết, còn Thanh Văn, Duyên Giác còn kém hơn, điều này chúng ta phải biết, chớ tưởng rằng A Di Đà Phật tương lai Niết Bàn chúng ta niệm Phật có lẽ đến lúc chúng ta mạng chung thì A Di Đà Phật đã Niết Bàn rồi… vậy thì hỏng cả phải không?

Ai đến tiếp dẫn chúng ta, điều này mới là buồn cười.

Người này thật là gì?

Cái gì gọi là Vô Lượng Thọ, họ ngỡ rằng A Di Đà Phật cũng chẳng qua chỉ là mấy mươi tuổi, chỉ có một trăm tuổi mà thôi, đây gọi là phỉ báng Phật, cả ý nghĩa hai chữ vô lượng đều không biết, đây là một chuyện đại buồn cười.

Phi dĩ toán kế tỉ dụ tri sở năng tri sự kế toán tức là khi nãy đã nói rồi, mười phương chúng sanh đều thành Duyên Giác, năng lực đều giống như Xá Lợi Phất, có thể suy đoán tính toán, tính không ra được.

Tỉ dụ như nước biển với mao trần thủy cũng là tỉ dụ chẳng ra được, chẳng phải toán số tỉ dụ có thể biết được đây là thọ mạng trường cửu không thể xưng tính.

A Di Đà Phật!

***