Haèng thuaän chuùng sanh
Tuyø hyû coâng ñöùc

tinhdo.edu.vn

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI - TẬP MƯỜI SÁU

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP MƯỜI SÁU

SIÊU THẾ HY HỮU ĐỆ THẬP BÁT
 

Phẩm Kinh này Thế Tôn muốn vì chúng ta giới thiệu Tây Phương Thế Giới chánh báo trang nghiêm, chánh báo tức là vì chúng ta giới thiệu Đạo Sư A Di Đà Phật cùng với nhóm đệ tử của Phật.

Bỉ Cực Lạc quốc, sở hữu chúng sanh, dung sắc vi diệu, siêu thế hy hữu. Hàm đồng nhất loại, vô sai biệt tướng.

Đãn nhân thuận dư phương tục, cố hữu Thiên Nhân chi danh, đoạn Kinh Văn này rất quan trọng. Có thể tiêu trừ rất nhiều sự hiểu lầm của chúng ta.

Tây Phương Thế Giới, chúng ta nơi trong bốn mươi tám nguyện của Phật chỗ thấy được đó là bình đẳng pháp giới, chỗ nghe được đó phàm là những người vãng sanh đến Cực Lạc Thế Giới bất luận là Bồ Tát Thanh Văn Thiên Nhân cho đến ác đạo chúng sanh bao gồm cả địa ngục chúng sanh sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đều là A duy việt chí Bồ Tát điều này là chúng ta nghe nói.

Vì sao lúc Thế Tôn thuyết Kinh vẫn thường giảng Tây Phương Thế Giới có Thanh Văn có Thiên Nhân đại chúng?

Chỗ này vì chúng ta nói ra Thiên Nhân, đại chúng chẳng phải thật thuận dư phương tục tức là Tây Phương Thế Giới tại Tây Phương Thế Giới mà nói trong Chư Phật sát độ khác có Thiên Nhân, có Thanh Văn là tùy thuận tha phương Thế Giới mà nói, vậy còn trong đây thì sao?

Thì có hai nghĩa: Một là đoạn phiền não. Giống như chúng ta đới nghiệp vãng sanh. Sanh đến Tây Phương Thế Giới tuy đều là A duy việt chí Bồ Tát, A duy việt chí Bồ Tát đó chẳng phải chúng ta tu được, đó chẳng phải công phu của chính chúng ta mà do Phật lực gia trì, đem chúng ta quyết nâng lên đến cảnh giới đó, còn chính mình thật tại mà nói một phẩm phiền não chưa đoạn.

Vậy từ trên tự phần mà nói chúng ta là thân phận Nhân Thiên, được Phật vừa gia trì chúng ta cũng làm được A Duy Việt Chí Bồ Tát là sự việc như thế đó. Chúng ta phải hiểu rõ ràng, Phật nói pháp ý nghĩa là ở chỗ này.

Còn ý nghĩa thứ hai là gì?

Là nói đến thân phận ngày trước lúc chúng ta chưa đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, chúng ta là từ nhân đạo mà đi thì Phật nói về người, từ Thiên Đạo mà đi thì Phật nói là trời, từ thanh văn Duyên Giác mà đi thì Phật nói Thanh Văn là ý nghĩa này, mà chẳng phải cách xưng hô tại Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Vậy chỗ này chúng ta xem thấy được rất rõ ràng, rất minh bạch. Tây Phương Thế Giới là bình đẳng Thế giới, sở hữu chúng sanh, đây tức là chúng ta bình thường nói chín pháp giới chúng sanh, tất cả những chúng sanh này sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới bất luận là đồng cư độ vãng sanh. 

Hữu dư độ vãng sanh, thật báu độ vãng sanh dung sắc vi diệu siêu thế hi hữu hàm đồng nhất loại vô sai biệt tướng, tướng mạo này bình đẳng, chẳng có sai biệt, cùng A Di Đà Phật một mẫu một thứ điều này chúng ta nhất định phải ghi nhớ.

Anh xem! Cùng bổn nguyện của Phật hoàn toàn tương ưng, Phật chẳng nói dối, còn đại nguyện của Phật, nguyện nguyện đều làm được rồi, nguyện nguyện đều thực hiện rồi.

Câu siêu thế hy hữu, ý nghĩa rất sâu rốt cuộc hy hữu đến trình độ nào?

Phía dưới Phật dùng một phương pháp so sánh khiến cho chúng ta đi thể hội lấy.

Phật cáo A Nan: Thí như thế gian, bần khổ khất nhân, tại đế vương biên, diện mạo hình trạng, ninh khả loại hồ?

Đây là đem người thế gian làm thí dụ: Như một người ăn mày, ăn mày xin cơm, còn một người là đế vương, hai người này cùng đứng một nơi, quý vị thử xem, họ có thể so sánh được không?

Đế Vương là người phú quý đến chỗ cùng cực ở thế gian, người phú quý này có cái tướng phú quý của họ, kẻ bần tiện thì có tướng người bần tiện, tướng mạo ấy không giống nhau, phong thái tuyệt đối khác hẳn, tỉ dụ này rất hay.

Phật khiến chúng ta từ chỗ này mà thể hội. Nhân gian này, đế vương nhược tỷ, Chuyển Luân Thánh Vương, tắc vi bỉ lậu, đế vương của nhân gian nếu cùng với Chuyển Vương Thánh Vương để so sánh, thật tại mà nói thì cùng kẻ ăn mày ấy cùng đế vương so sánh chẳng có sai biệt là bao. Chuyển Luân Thánh Vương ở thế gian này của chúng ta chẳng có.

Phật trong Kinh nói Chuyển Luân Thánh Vương có bốn loại có Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Đồng Luân Vương, Thiết Luân Vương. Có bốn loại. Phạm vi thống trị của họ lớn.

Kim Luân Vương thống trị một tứ thiên hạ, đây là một hệ tinh cầu, chẳng phải một cái địa cầu là một hệ tinh cầu.

Giả như cách nhìn của lão cư sĩ Huỳnh Niệm Tổ trong phần chú giải Kinh Vô Lượng Thọ của Ngài phía sau có một bài văn, dùng nhãn quan khoa học để nhìn cái thế giới quan của nhà Phật thì cái hệ tinh cầu này tức là chúng ta ngày nay gọi là hệ ngân hà. Vị Vua của hệ ngân hà, vậy hệ tinh cầu của chúng ta đây làm sao có thể cùng Ngài so sánh được, chẳng thể so sánh được.

Tại sao gọi là luân Vương?

Vì Ngài có một bửu bối gọi là Luân Bảo, bửu bối này là binh khí của Ngài, thế lực của Ngài có thể đạt đến địa phương ấy thì nơi đó mới là phạm vi thống trị của Ngài, nếu Ngài chẳng đạt đến được vậy sao có thể cho là thống trị!?

Vũ lực của Ngài phải đạt đến được, luân bảo này là vũ khí của Ngài. Giống như không quân của chúng ta bây giờ.

Trước kia chiến tranh là lấy lục quân làm chủ về sau chiến tranh đã phát triển đến lấy không quân làm chủ, nếu chẳng có quyền giữ được không phận thì anh quyết định thắng không nổi trận chiến tranh này. Luân bảo này cũng là công cụ giao thông của Ngài.

Vật này, giống như những năm gần đây chúng ta phát hiện đĩa bay có thể là Luân Vương hoặc sứ giả của Luân Vương phái đến, đến địa phương này để tuần tra để xem xét, phải không?

Luân Vương chúng ta chẳng thấy qua. Thế nên cái lớn, cái phước báu của Luân Vương chẳng phải đế vương của thế gian này của chúng ta có thể so sánh được. Do bỉ khất nhân, tại đế vương biên dã, phước báo của chuyển luân thánh vương này lớn.

Anh xem. Ngài thống trị một hệ ngân hà. Một vị đại vương thống trị một hệ ngân hà.

Chuyển luân thánh vương, uy tướng đệ nhất, uy tướng mạo của Ngài tại nhân gian chúng ta mà xem thật sự là đệ nhất tỷ chi Đao Lợi Thiên Vương, hựu phục xú liệt, nếu Ngài cùng Thiên Vương so sánh thì Ngài kém xa, Ngài chẳng sánh bằng Thiên Vương.

Chuyển Luân Thánh Vương cùng Đao Lợi Thiên Vương nếu đứng cùng một nơi thì giống như đế vương của nhân gian đứng cùng gã ăn mày đứng ở một nơi thì Ngài kém xa lắm.

Chẳng thể sánh nổi! Đao Lợi Thiên tức là Đế Thích Thiên phía dưới nói: Giả linh Đế Thích, Đế Thích tức là đao lợi Thiên Vương. Hiện nay trong rất nhiều Tôn giáo họ tín ngưỡng thượng đế, thiên chúa… có thể đều là chỉ cho Đao Lợi Thiên Vương. Bởi vì chúng ta thấy được cảnh giới trong Kinh Điển của họ rất giống Đao Lợi Thiên.

Trong Kinh Phật nói đến. Giả linh Đế Thích, Đế Thích tức là Đao Lợi Thiên Vương cũng gọi là Đế Thích Thiên Vương.

Tỷ đệ Lục thiên, đây là Dục Giới. Tầng trời thứ sáu.

Đao Lợi Thiên là Dục Giới tầng thứ hai tầng trời thứ hai lại đi lên tầng trời thứ sáu tức là Tha Hóa Tự Tại Thiên cùng Thiên Chủ của tha hóa tự tại thiên, hai vị cùng so sánh thì sao?

Tuy bá thiên bội, bất tương loại dã, so sánh cách nào cũng chẳng sánh bằng. Anh mới biết được tầng trời này càng đi lên thì tướng mạo càng trang nghiêm, phước đức càng lớn.

Chẳng tu đại phước đức thì làm sao có thể sanh lên trời chứ?

Sanh thiên phải tu đại phước đức.

Đệ Lục Thiên Vương, đây là nói về Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương nhược tỷ Cực Lạc quốc trung, Bồ Tát Thanh Văn, đây là cùng người Cực Lạc Thế Giới đây là những người vãng sanh đến Cực Lạc Thế Giới cùng họ so sánh xem: Quang nhan dung sắc, quang thể của Ngài, Phật nói ánh quang minh của Ngài tức là ánh sáng rực rỡ dung mạo, tuy vạn ức bội, bất tương cập tiệp. Quý vị thử nghĩ, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tướng mạo thật là bất khả tư nghì.

Vượt hơn Đại Lục Thiên Vương vạn ức lần. Chúng ta ở thế gian này một đời, một kiếp tu hành có thể tu đến Đao Lợi Thiên là một Thiên Nhân thông thường đều chẳng dễ dàng, điều kiện đến Đao Lợi Thiên phải tu Thập thiện nghiệp đạo của thượng phẩm, nghiệp nhân này mới có thể sanh Đao Lợi Thiên vẫn chưa thể làm Thiên Vương. Thiên Vương phước báo đó thì quá lớn.

Chẳng thể làm Thiên Vương, chỉ có thể đến đó làm một thường dân mà thôi. Phải dùng loại công phu này thì chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới nhất định được sanh, sanh đến Tây Phương Thế Giới nhờ sự gia trì bổn nguyện oai đức của A Di Đà Phật, khiến cho trí tuệ, đạo lực, thần thông của chúng ta vượt hơn Đệ Lục Thiên Vương chẳng biết bao nhiêu.

Chẳng có cách chi tính được. Chỗ này khi nói phi vạn ức bội bất tương cập tiệp, vậy mới biết được lợi ích của sự niệm Phật vãng sanh đây là nói siêu thắng.

Phật đích thật nếu chẳng dùng phương tiện này thì chúng ta rất khó thể hội, cái siêu thắng này đến trình độ nào?

Chẳng biết. Hy hữu trình độ nào cũng chẳng biết được, vừa so sánh như vậy thì trong tâm chúng ta sẽ có một cái khái niệm thật sự là siêu thắng hy hữu, phía dưới nói với chúng ta y báo siêu thắng hy hữu, y báo là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta.

Sở xứ Cung Diện, là hoàn cảnh cư trú y phục ẩm thực, do như Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, sự lớn lao của phước báo này hy hữu siêu thắng bất khả tư nghì. Tha Hóa Tự Tại Thiên tức là phía trước nói Đệ Lục Thiên, rất giống Đệ Lục Thiên so với Đệ Lục Thiên thù thắng quá nhiều.

Đệ Lục Thiên làm sao có thể so sánh được?!

Những nơi nào giống Tha Hóa Tự Tại Thiên?

Tất cả đều là tự nhiên, Dục Giới tầng thứ năm gọi là Hóa Lạc Thiên, tầng thứ năm thì thọ dụng được tự tại. Toàn là biến hóa ra. Cung Diện nơi họ cư trú, những thứ cần thiết trong đời sống chẳng cần chúng ta đi kinh doanh, doanh cầu, đi chế tạo xây dựng.

Chẳng cần! Hoàn toàn là biến hóa ra. Đệ Lục Thiên này tức là Tha Hóa Tự Tại Thiên chẳng cần tự mình biến hóa. Đệ Ngũ Thiên, Hóa Lạc Thiên Nhân biến hóa đến cúng dường họ, chẳng cần tự họ biến hóa. Vậy thì chúng ta đến Tây Phương Thế Giới chỗ có tất cả thọ dụng chẳng cần tự mình biến hóa.

Vậy ai biến hóa cúng dường cho chúng ta?

Chẳng phải Biến Hóa Lạc Thiên, chẳng phải Hóa Lạc Thiên Hóa Lạc Thiên biến hóa ra những thứ đó rất thô, A Di Đà Phật biến hóa ra cho chúng ta thọ dụng. Thiên Vương của Hóa Lạc Thiên làm sao sánh bằng với A Di Đà Phật được.

Cho nên Tây Phương Thế Giới A Di Đà Phật. Phía trước chúng ta đã đọc qua. Ngài làm đại thí chủ, Ngài biến hóa cúng dường cho chúng ta hưởng thụ. Cho nên chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới hưởng thụ cái phước báo của A Di Đà Phật. Tất cả nhu cầu sinh hoạt toàn là A Di Đà Phật biến hóa làm ra để cúng dường cho chúng ta.

Những người vãng sanh thật là phi thường. A Di Đà Phật đều phải cúng dường cho anh.

Anh xem! Phước báo của anh lớn biết mấy.

Phước báo từ đâu mà có?

Là niệm Phật được đấy, cho nên niệm Phật thật sự đối với hiện tiền của chúng ta mà nói, niệm Phật là đệ nhất đức, đệ nhất đại phước báo, người mà chẳng biết niệm Phật đây là nghiệp chướng nặng, phải từ trong tâm để niệm, thành tâm thành ý để niệm, phước báo này bất khả tư nghì.

Anh nếu cảm được thọ dụng y chánh trang nghiêm của Cực Lạc Thế Giới anh mới biết được cái lớn của phước báo này từ trên quả mà xem thì biết ngay.

Niệm Phật niệm câu A Di Đà Phật này người người đều biết niệm làm gì có phước báo lớn như vậy?

Người thường đều hoài nghi, đều chẳng tin nhưng anh phải xem cái thọ dụng khi đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đó là cái quả hiện tiền, quả siêu thắng như vậy. Mới biết được chúng ta ngày nay niệm câu Phật hiệu này cái nhân này, nhân siêu thắng hy hữu. Quý vị phải hiểu rõ đạo lý này, phần dưới lại nói uy đức siêu thắng.

Chí vu oai đức, giai vị thần thông biến hoá, từ mấy cái này mà nói trong uy đức bao hàm cái trí tuệ, bao hàm cái chúng ta thường nói phẩm đức, đạo đức.

Còn giai vị?

Giai vị tức là chúng ta ngày nay gọi là địa vị, hoặc giả tại Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chúng ta gọi là phẩm vị của Tứ độ Cửu phẩm. Tha phương thế giới, Thanh Văn có Tứ quả, tứ tướng. Tám cái giai vị, tám giai cấp. Bồ Tát từ Thập tín đến Đẳng giác có năm mươi mốt cái giai vị, năm mươi mốt cái giai vị.

Cái giai vị Tây Phương này nó là bình đẳng, tại sao vậy?

Sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì viên chứng tam bất thối, phàm phu, ác đạo phàm phu đi vãng sanh cũng là viên mãn tam bất thối, cũng là vị Đề Đẳng giác.

Đây đều là A Di Đà Phật bốn mươi tám nguyện gia trì, lúc nãy đã nói chẳng phải là tự phần của chúng ta, là A Di Đà Phật gia trì, A Di Đà Phật gia trì chúng ta thật có được thọ dụng, chúng ta biểu hiện ra năng lực của uy đức này. Năng lực của uy đức này đích thực là giống như Đẳng giác Bồ Tát.

Cho nên Cổ đức thường nói vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền nắm tay đồng hành, tay trong tay địa vị tương đồng là bạn học là bằng hữu.

Anh xem! Trong chốc lát lại đưa địa vị lên cao như vậy. Chúng ta chỉ mới niệm Phật vài ngày, đây mới biết được danh hiệu công đức đích thực siêu thắng không thể nghĩ bàn, đạo lý này là ở nơi đây. Đây đều là chân tướng của sự thật, thần thông biến hóa, đều cùng nhóm Đại Bồ Tát này chẳng có sai khác.

Nhất thiết Thiên Nhân, bất khả vi tỉ, Thiên Nhân, Tha Hóa Tự Tại Thiên lại hướng lên trên là Tứ Thiền Thiên, Tứ Không Thiên so sánh cách nào cũng chẳng so sánh kịp.

Bá thiện vạn ức, bất khả kế bội, đây là nói số lượng chẳng có cách chi so sánh. Trong phẩm Kinh Văn này nói với chúng ta khi vãng sanh đến nơi đó, cái chánh báo của chúng ta, hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, oai đức giai vị này là nói chúng ta hiển thị ra năng lực đều cùng Đẳng giác Bồ Tát phưởng phất.

A Nan ưng tri. Vô Lượng Thọ Phật, Cực Lạc Quốc Độ, như thị công đức trang nghiêm, bất khả tư nghì, đây là tổng kết. Nói với A Nan tức là nói với chúng ta.

Ý nghĩa của Kinh Văn là cực lực khuyến tấn chúng ta phải nên biết chân tướng của sự thật này. Phải biết lợi ích chân thật này để mau chóng cầu nguyện vãng sanh. Hà tất phải ở tại thế gian này ngày ngày thọ tội, ngày ngày chịu nhục, thế giới này có nghĩa gì đâu.

Chẳng phải không thể đi, nếu không thể đi thì không nói, có thể đi anh tại sao không đi?

Vẫn còn ở đây để thọ tội, vẫn còn ở đây để chịu nhục, anh chẳng phải là kẻ đáng thương sao?

Anh đúng là kẻ đáng thương.
 

THỌ DỤNG CỤ TÚC

ĐỆ THẬP CỬU
 

Chương này nói rõ, khi sanh đên Tây Phương Thế Giới thì phước đức vô lượng. Tất cả thọ dụng. Khi nãy đã nói. Đều do A Di Đà Phật biến hóa làm ra, Phật là Đại Thí Chủ cúng dường cho chúng ta, thảy đều đầy đủ, muốn gì thì có nấy, nghĩ gì thì có nấy, chẳng thể có một tơ hào nào khiếm khuyết, xin xem phần Kinh Văn.

Phục thứ Cực Lạc Thế Giới, sở hữu chúng sanh, hoặc dĩ sanh, dĩ sanh là những người đã vãng sanh, A Di Đà Phật thành Phật đã mười kiếp rồi, trong mười kiếp này số người vãng sanh rất đông, đây là những người đã vãng sanh.

Hoặc hiện sanh là hiện tại vãng sanh. Hiện tại vãng sanh là chúng ta nhìn thấy rất nhiều người niệm Phật đã đi vãng sanh rồi, tức là người hiện nay.

Hoặc đương sanh, đương sanh là chúng ta hiện nay đang niệm Phật muốn đi, nhưng vẫn chưa đi, đi là đương sanh, đương sanh cũng phải rất giỏi, tuy chưa đi nhưng nhất định phải đi. Tại Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đã báo danh rồi, anh ghi danh rồi, quyết định phải đi, cái này sớm muộn gì nhất định cũng phải đi, đây là đương sanh, đương sanh là chỉ cho số người này vậy.

Thì làm sao để ghi danh đăng ký đây?

Điều nầy rất quan trọng. Chúng ta có lòng tin kiên định, một tơ hào điều chẳng hoài nghi, ta một đời này phải nhất định phải sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, quyết định phải gặp A Di Đà Phật, anh có được cái tâm kiên định như vậy thì đây đã báo danh rồi.

Có thể đem tất cả muôn duyên buông xuống, đối với thế gian này chẳng có một tơ hào nhớ nghĩ nữa, cả thảy buông xuống hết, một lòng một dạ chỉ nghĩ đến A Di Đà Phật, chỉ nghĩ đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Vậy là anh đã ghi danh rồi đó. Đây là sớm muộn gì nhất định phải đi.

Hiện giờ tuy vẫn còn ở nhân gian, nếu người có thần thông gặp được anh sẽ nói: Ôi chao! Họ là để tử A Di Đà Phật, họ là người của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng phải người của Ta Bà Thế Giới, họ chẳng bao lâu sẽ phải đi. Cho nên đây là đương sanh.

Giai đắc như thị, chư diệu sắc thân, sắc thân này trong bổn nguyện nói đến đều là Tử Ma Chân Kim Sắc Thân, hình mạo đoan nghiêm, dung mạo đoan chính, trang nghiêm, hình là hình trạng, dung mạo đoan chính, trang nghiêm.

Cùng A Di Đà Phật như nhau, chúng ta ngày nay tạo tượng Phật, vẽ Tượng Phật, vẽ không ra. Cái tướng mà chúng ta tạo đó cùng với cái tướng chân chánh của A Di Đà Phật kém rất xa, chúng ta tạo không ra được. Phước đức vô lượng, đây là có phước, có phước có đức phước đức vô vượng, trong phước đức bao hàm đó vô cùng, vô cùng rộng lớn.

Người Trung Quốc chúng ta đem nó qui nạp thành năm đại loại, thường gọi là Ngũ Phước Lâm Môn. Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, cái phước đức ấy vô lượng vô biên, không chỉ có năm loại này.

Trí tuệ minh liễu, nhìn đến phước rồi lại nhìn đến trí, chẳng những trí tuệ viên mãn, đối với tất cả pháp thế và xuất thế gian tất cả pháp thông đạt hiểu rõ, chẳng những đối với hiện tiền, đối với quá khứ, vị lai đều có thể hiểu rõ.

Thần thông tự tại, đoạn này so với phía trước. Đây là bổ sung ý nghĩa phía trước. Khiến cho chúng ta xem đến thì càng rõ ràng, càng minh bạch hơn, thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc, phong là phong phú, túc là đầy đủ tất cả sự thọ dụng của anh, các thứ thọ dụng điều vô cùng phong phú đầy đủ, chẳng có thiếu thốn.

Điều này khi nãy đều đã nói qua, đều là A Di Đà Phật biến hóa làm ra, để cung cấp cho chúng ta, phía dưới nêu ra vài ví dụ, cung điện là nơi chốn để cư trú, chúng ta ngày nay gọi là nhà cửa phòng ốc thể cư trú. Phục sức, phục y phục, sức là trang sức, Bồ Tát cũng có trang sức, anh xem.

Trên chiếc mão có gắn rất nhiều hoa, trước ngực có phối Anh Lạc. Ngài cũng có trang sức. Những thứ trang sức này đều là trân bảo vô lượng. Hương hoa là cái mà chúng ta ưa thích, dùng nó để tô điểm hoàn cảnh, bất luận là trong nhà, ngoài nhà.

Phan cái, trang nghiêm chi cụ, Phan cái là gì?

Là như chúng ta hiện nay gọi là cờ xí. Cờ để treo. Dây màu đều là thuộc về loại này bất luận là trong nhà, ngoài nhà, cũng là công cụ để trang nghiêm.

Tùy ý sở tu, tất giai như niệm, trong đây có sinh hoạt ngày thường, cái lớn tức là nhà cửa nơi cư trú, đây là lớn. Còn trang sức nhỏ như hương hoa, phan lọng... nói cái lớn, cái nhỏ, tất cả đều bao quát trong đó, chẳng phải từng thứ, từng thứ để giảng kỹ.

Nói tóm lại y thực trú hành chẳng có cái nào anh chẳng tự tại, chẳng có thứ nào chẳng phong túc. Nhược dục thực thời, đây là nói ẩm thực tự tại, chúng ta người thế gian này ẩm thực rất quan trọng.

Anh thử nghĩ xem, mỗi người, mỗi ngày dùng vào việc ẩm thực, thời gian dùng đó hao tốn tinh thần là bao nhiêu, đặc biệt là những gia đình giàu có hơn một tí, đối với sự ẩm thực vô cùng chú trọng.

 Phung phí thì giờ và tinh lực rất nhiều, còn người của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, khi muốn ăn thức ăn thì Thất Bảo bát khí, tự nhiên hiện tiền, chữ bát khí này theo cách nói hiện nay là dụng cụ bàn ăn, hình thức dụng cụ đó rất nhiều, rất nhiều.

Chất liệu đều là bảy báu, thế gian chúng ta hiện nay, dụng cụ bàn ăn cao cấp nhất là bằng bạc thì là sang nhất, cái này chúng ta còn thấy qua, chỉ có bằng vàng thì chỉ nghe chứ chưa thấy qua.

Các bậc Vua chúa thời xưa có đại phước báo, trong cung đình dụng cụ bàn ăn là bằng vàng. Chúng ta hiện nay, người hiện nay chẳng có phước báo lớn như vậy, bằng bạc thì có, bằng vàng thì không có, còn các loại trân bảo khác cũng chẳng có.

Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, dụng cụ bàn ăn đều là chế tạo bằng bảy báu, tự nhiên tại tiền, chẳng cần tự mình biến hóa, trong tâm mình vừa chợt nghĩ thì thức ăn liền ở trước mặt, ai biến hóa ra đó?

A Di Đà Phật tặng cho anh đấy, tặng cho, biến ra để tặng cho. Di Đà thật đối với chúng ta thật quá lớn, quá lớn. Chiếu cố đến nơi nơi đều chu đáo, giống như cha mẹ đối với con nhỏ, toàn tâm toàn lực để chiếu cố, anh vừa động niệm thì Ngài biết ngay, Ngài liền biến hóa tặng đến trước mặt anh.

Bá vị ẩm thực, tự nhiên doanh mãn, trong những dụng cụ trên bàn ăn, các thức ăn ngon, cơm ngon đựng đầy cả, chén dĩa chẳng phải trống không đều đựng đầy cả, tuy hữu thử thực, thật vô thực giả, những thức ăn này hiện tiền rồi nhưng chẳng để ăn nó, những hiện tượng này đều là khi chúng ta mới đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mỗi ngày ăn cơm, tập khí này vẫn chưa quên mất, thường thường nghĩ: Sao lâu quá mà chưa ăn cơm?

Cái niệm này vừa động thì hiện tượng này liền hiện tiền, đến khi những thức ăn cơm nước bày ra trước mặt, trong tâm chợt nghĩ: Ta nay chẳng phải là phàm phu, ta là thể Kim Cang bất hoại, là cái thân thanh hư vô cực, làm gì còn dùng đến những thứ này, lúc bấy giờ niệm vừa động thì nó tan mất, thì tự nhiên hóa đi mất. Cho nên nói thật vô thực giả.

Đãn kiến sắc văn hương dĩ ý vi thực, thấy đến sắc hương này thì trong lòng rất mãn túc, thì chẳng cần nữa, sắc lực tăng trưởng, nhi vô tiện uế, chúng ta nơi đây vì có ẩm thực cho nên mới có bài tiết, Tây Phương Thế Giới chẳng có, thân thể này đều là trong suốt, tuy là tử ma chân kim, thể chất này là trong suốt.

Thân tâm nhu nhuyến, vô sở vị trước, trước là trước tướng, tham niệm đối với ẩm thực chẳng thể khởi một niệm đây là tâm tham, sẽ chẳng tham trước. Sự dĩ hóa khứ, đến khi niệm này minh bạch rồi, nay chẳng cần nữa, thì chẳng còn nữa, thì hóa mất rồi, hóa đi mất rồi.

Thời chí phục hiện, nếu như anh lại nổi dậy vọng tưởng, lại nghĩ đến lại muốn ăn, nó lại hiện ra, thì cảnh giới này lại hiện tiền, chỗ này thảy được, cái vẻ tự tại đó.

Đoạn phía dưới nói về y tự tại, phục hữu chúng bảo diệu y, Tây Phương Thế Giới vô lượng trân bảo. Bảo ấy là mềm, chẳng giống như thế gian chúng ta đây, bảy báo đều có độ cứng rất lớn, chỉ có thể làm những đồ trang sức, chẳng thể làm quần áo để mặc, đây là vì nó quá cứng. 

Báu vật của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mềm mại, những thứ vàng bạc, mã nảo, lưu ly thì giống như vải sô của chúng ta, nên có thể làm quần áo để mặc, cho nên y phục của họ đều là bảo y. Cho nên chúng bảo diệu y, đây là bảo của nó mềm mại, bảo này có thể biến rất mỏng, rất mỏng giống như tơ vậy.

Quan đái, quan là chiếc mũ, đái là sợi dây thắt lưng. Anh lạc, đây là đồ trang sức đeo trên thân, tay và khủy tay đều có thể đeo những thứ anh lạc này. Vô lượng quang minh, bảo phóng quang. Bá thiên diệu sắc, tất giai cụ túc, tự nhiên tại thân, anh muốn mặc y phục gì thì nó thành y phục đó, muốn màu sắc gì thì nó biến màu sắc ấy, tất cả tùy tâm chỗ mong muốn.

Tâm anh chỉ vừa động niệm, thì nó tự nhiên biến hóa, không những chẳng cần may. Phiền phức mặc áo phiền phức chẳng cần mặc, vừa động vừa nghĩ, áo tự nhiên ở trên thân chẳng cần mặc, chúng ta mặc còn phải gài vài hột nút, phiền phức biết mấy, người ta bên đó chẳng có, người Tây Phương Thế Giới y phục của họ chẳng có nút, họ không cần, anh mới biết sự lợi ích tự nhiên tại thân.

Sở cư xá trạch, xứng kỳ hình sắc, đoạn này là nói chỗ ở tự tại, chẳng có một thứ nào chẳng tự tại, ở tự tại, nhà cửa chúng ta ở, chữ trạch xá tức là nhà cửa để ở, xứng kỳ hình sắc, xứng là xứng tâm như ý. Nhà cửa muốn kiểu gì thì nó thành kiểu ấy, muốn màu gì thì nó màu ấy, muốn trân bảo gì thì nó trân bảo đó tạo thành, tất cả đều là tùy tâm sở dục.

Bảo võng di phú, huyền chư bảo linh, muốn bên ngoài cái nhà có lưới báu trang nghiêm thì bên ngoài đều có, còn muốn bên trong cột kèo có lưới báu trang nghiêm thì bên trong liền có.

Tất cả đều là tùy tâm như ý, biến hóa hiện tiền, kỳ diệu trân dị, châu biến hiệu sức, đây là hình dung, chẳng phải sự thật, chữ hiệu này là giống như tinh tâm thiết kế, chữ hiệu này là dùng lời hiện đại mà nói, là tinh tâm thiết kế. Kỳ thật địa phương ấy chẳng có người thiết kế, giống như là tinh tâm thiết kế vậy, đẹp đẽ như vậy, trang nghiêm như vậy.

Quang sắc hoảng diệu, tận cực nghiêm lệ, ánh sáng màu sắc của nó vô cùng sáng tỏ, vô cùng lóe mắt, trang nghiêm đẹp đẽ đã đạt đến chỗ cùng cực. Lầu quán lan thuẩn, lan thuẩn là lan can, trên đài cấp có lan có thể, đường vũ phòng các đường là điện đường, phòng các là chỗ nơi cư trú.

Quảng hiệp phương viên, hoặc đại hoặc tiểu, anh ưa thích lớn thì phòng ốc liền lớn, ưa thích nhỏ thì nó liền nhỏ, đều là xứng tâm như ý, hoặc tại hư không, hoặc tại bình địa. Thanh tịnh an ổn, vi diệu khoái lạc, ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc. Chúng ta đã thấy Tây Phương Thế Giới, sự hưởng thụ trong đời sống của nhóm đại chúng này.

Chúng ta có những cảm tưởng gì?

Chúng ta sống thế gian này, cuộc sống quá khổ, mua một căn nhà chẳng dễ, cho dù đã mua được căn nhà hằng năm vẫn phải bảo trì tu sửa.

Anh bảo. Phiền phức biết mấy. Mất bao nhiêu tinh thần để chiếu cố, lại còn chẳng thể theo ý muốn, chẳng thể xứng tâm như ý, tôi phải ở trong một căn nhà lớn, ở trong đó có vườn hoa, ở nơi đây chẳng có được khả năng này.

Ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì là tiện lợi rồi, chẳng có một thứ chẳng xứng tâm, chẳng có một thứ chẳng như ý, hoàn cảnh tốt như vậy đang chờ đợi anh đi, nếu như anh không đi, anh thử nghĩ xem, trong Kinh Phật thường nói là kẻ đáng thương, chúng ta nghe xong câu nói này, mới biết được thế nào là đáng thương, đây thật là đáng thương, đáng thương đến trình độ nào?

Chúng ta có thể thể hội được đôi phần, đang chờ chúng ta đi, hoàn toàn là chân tướng của sự thật.
 

ĐỨC PHONG HOA VŨ

ĐỆ NHỊ THẬP
 

Từ phẩm thứ mười bốn Bảo Thụ Biến Quốc mãi cho đến chỗ này đều là giới thiệu Tây Phương Thế Giới hoàn cảnh y chánh trang nghiêm, đồng thời bên trong cũng nói nơi chúng ta lục trần thuyết pháp mà đoạn này lục trần thuyết pháp lại càng rõ rệt. Xin xem Kinh Văn.

Kỳ Phật quốc độ, mỗi ư thực thời, tự nhiên đức phong từ khởi.

Xuy chư la võng, cập chúng bảo thụ, sự thật này không nhất định cho là lúc ăn cơm, bởi vì chúng ta được biết, người của Tây Phương Thế Giới chẳng có cái tập quán ăn uống, khi nãy vừa nói đó đều là chúng ta lúc mới đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có cái tập khí này, sự thật này giải thích cách nào đây?

Tức là một lúc nhất định, giống như chúng ta ăn ba bữa cơm, có một thời giờ nhất định, đem nó xem như là định thời, đến một lúc nhất định thì nó sẽ có một bầu khí tượng mới mẻ, khí tượng này là câu tự nhiên đức phong từ khởi.

Gió cũng có đức, đức của gió ở đâu?

Gió này thổi đến trên mình anh, không những anh cảm giác rất thoải mái, cũng có thể trừ cấu, diệt tội giúp anh khai ngộ, gió này có cái lợi ích như vậy.

Cho nên quang cảnh của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tất cả đều giúp chúng ta tiêu tai diệt tội, minh tâm kiến tánh, cho nên chữ đức này là nói những cái này. Từ khởi là gió nhẹ, cơn gió nhẹ thổi động, một khoảng thời gian có một cơn gió nhẹ, chữ thực thời tức là có một thời giờ nhất định, mỗi khi đến thời giờ này thì có một cơn gió, gió này rất nhẹ.

Xuy chư la võng, cập chúng bảo thụ, chữ la võng, giữa lưới với lưới chỗ giao tiếp đều có buộc một chiếc chuông lớn chuông báu. Cây, cành, hoa, quả, lá đều là các loại báu là thành. Lúc gió vừa thổi, thì đó đây hỗ tương va chạm, nó phát ra âm thanh.

Cho nên phía dưới nói xuất vi diệu âm thì giống như nhạc giao hưởng của thế gian này của chúng ta, nó có tiết tấu, âm thanh của nó. Chẳng loạn. Nó có tiết tấu vô cùng vui tai, chẳng những hay nó còn biết thuyết pháp.

Pháp của nó thuyết đó có thể nói là chẳng có một pháp nào mà chẳng thuyết, chẳng những là tất cả pháp mà Đức Thích Ca Mâu Ni Phật bốn mươi chín năm vì chúng ta thuyết đó, nơi ấy tất cả đều thuyết.

Thật tại mà nói mười phương thế giới, vô lượng vô biên Chư Phật Như Lai vì tất cả chúng sanh chỗ thuyết pháp ấy, Tây Phương Thế Giới thảy đều đầy đủ.

Vậy nói một cách khác, chúng ta tại cái Thế Giới Ta Bà này, trên quả địa cầu hiện tại này Phật Pháp anh nghe được đó, chỉ là Đại Tạng Kinh của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật để lại mà thôi. 

Trừ những thứ này ra thì anh chẳng nghe được chúng sanh của mười phương thế giới nếu họ chẳng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì pháp âm mà họ nghe được đó đều hạng thuộc ở một bộ phận, chẳng có biện pháp nghe được.

Toàn thể duy chỉ có sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mới có thể nghe được, mới có thể thấy được Chư Phật chỗ nói, vô lượng vô biên pháp môn tất cả thảy đều tiếp xúc đến. Vả lại được A Di Đà Phật bổn nguyện gia trì, anh có trí tuệ, có năng lực, có thần thông đi tiếp thọ.

Chúng ta ngày nay chẳng cần nói thứ khác Đại Tạng Kinh có bày trước mặt anh, anh cũng không thể tiêu hóa, không thể tiếp thụ chẳng có trí tuệ này, chẳng có năng lực này đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có được năng lực này có trí tuệ này, pháp của tất cả Chư Phật chỗ nói anh tất cả thảy đều có thể tiếp thọ. Cho nên đến nơi đó thành Phật nhanh, một tí chướng ngại đều chẳng có.

Diễn thuyết khổ không, vô thường, vô ngã, mấy câu này là đã bao quát các pháp tiểu thừa, pháp tiểu thừa phá ngã chấp. Chư Ba la mật, câu này là bao quát đại thừa Phật Pháp đây thì là toàn bộ Phật Pháp rồi, đại thừa Phật Pháp phá pháp chấp, ngã chấp phá rồi chứng tiểu thừa Tứ quả A La Hán, đại thừa pháp chấp cũng phá xong thì là thành Phật.

Lưu bố vạn chủng, ôn nhã đức hương, phía dưới bốn câu là nói rõ gió đưa mùi dịu hương. Cây có mùi hương, hoa cũng có mùi hương, chỗ có tất cả vật trân bảo thảy đều tỏa ra mùi hương, gió vừa thổi thì mùi hương này ở xa đều có thể ngửi được.

Kỳ hữu văn giả, trần lao cấu tập, tự nhiên bất khởi, anh xem.

Đây là đức của gió, đức của hương chẳng phải đã đều hiển thị ra rồi sao?!

Gọi đó là đức phong bởi vì tất cả chúng sanh, ngửi được rồi tiếp xúc được rồi thì nghiệp chướng liền tiêu trừ. Trần lao là phiền não, cấu tập là tập khí. Phiền não, tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay, ở tại đây tự tự nhiên nhiên tiêu trừ hết, thời thời khắc khắc tiêu trừ. Cho nên tiêu nghiệp chướng, đoạn phiền não, phá vô minh. Có tiến không thối. Họ chẳng thối chuyển.

Cách này thì nhanh chóng. Phong xúc kỳ thân, an hòa điều thích, đây là nói chỗ dịu của gió xúc thân gió thổi lên trên mình thì thân tâm an hòa, điều thích là nói về tâm, trong tâm anh cảm giác được vô cùng vui sướng. 

Phiền não, tạp niệm, tạp khí chẳng khởi. Do như Tỳ Kheo, đắc diệt tận định, đắc diệt tận định tức là chứng Tứ quả A La Hán, đắc diệt tận định là đem kiến tư phiền não thảy đều đoạn hết, là vui sướng giống như thế đó. Phiền não vĩnh viễn chẳng sanh. Phục xuy thất bảo lâm thọ, gió này thổi lên trên cây báu.

Tây Phương Thế Giới cây báu rất nhiều rất nhiều. Phiêu hoa thành tụ, hoa trên cây bị gió thổi bay bổng trên không trung vô cùng đẹp đẽ, giữa không trung như là đang rải hoa, điều càng bất khả tư nghì là hoa này ở không trung có thể tụ tập trở lại, giống như phía sau nói nó có thể trở thành một cái lọng hoa, có thể trên không trung tự tự nhiên nhiên sắp thành một đồ án vậy.

Chủng chủng sắc quang, biến mãn Phật độ, hình dáng của lọng hoa ấy rất nhiều chủng loại rất nhiều, ánh sáng màu sắc khác nhau, đây là nét trang nghiêm trên không trung của Tây Phương Thế Giới. Lúc gió thổi những cánh hoa này tô điểm trên không trung đây là nét trang nghiêm không thể nói hết được.

Tuỳ sắc thứ đệ, nhi bất tạp loạn, đây tức là nó sắp thành đồ án rất có thứ tự chẳng phải là sức người thiết kế, cũng chẳng cần người đi sắp đặt nó tự tự nhiên nhiên tổ hợp, tổ hợp được vô cùng xinh đẹp. Nhu nhuyến quang khiết, như Đâu La Miên, cái lọng hoa này có thể rơi xuống, sau khi rơi xuống thì giống như chúng ta hiện nay lát thảm trên mặt đất vậy.

Sau khi hoa bay rơi xuống lát thành tấm thảm trên mặt đất, tấm thảm cũng đẹp vô cùng. Có đồ án, một tí đều chẳng loạn. Nhu nhuyến quang khiết, khiết là sạch sẽ, hoa của chúng ta bên đây cho dù đem nó sắp thành đồ án, sắp thành một cái hoa tràng thì những cái này chẳng phải những cái thanh tịnh, còn Tây Phương Thế Giới thì thanh tịnh. Đích thật là một hạt bụi chẳng nhiễm.

Như Đâu La Miên, Đâu La Miên là một loại thực vật của Ấn Độ, giống như tơ liễu của Trung Quốc chúng ta hơi phản phất rất mềm, rất nhỏ, rất mềm. Túc lý kỳ thượng, một thâm tứ chỉ, người chúng ta đi lên trên mặt vì nó mềm nên nó có thể lún xuống, lún xuống bốn đầu ngón chân lún xuống.

Tùy túc cử dĩ, hoàn phục như sơ, nó có đàn tính. Chân chúng ta vừa giở lên thì nó liền khôi phục, nó lại nổi lên, nó có tính co giãn. Quá thực thời hậu, kỳ hoa tự một, đây là nói thời gian nhất định, nó mỗi một lúc đều có hiện tượng này, sau khi thời gian này qua rồi hoa chẳng còn nữa.

Đại địa thanh tịnh, canh vũ tân hoa, trải qua một thời gian lại có hoa mới trổ hoa. Tây Phương Thế Giới nó có một cánh chu kỳ nhất định chúng ta hiện nay gọi là tánh chu kỳ là nhất định nó có tính chu kỳ. Cho nên nói là không trung, mặt đất, trang nghiêm của mưa hoa, phẩm này đề mục là đức phong hoa vũ đây là nói hoa rơi xuống. Tùy kỳ thời tiết, hoàn phục châu biến.

Dữ tiền vô dị, hư thị lục phản, chữ lục phản này là tỉ dụ, bởi vì Thế Tôn ở tại thế gian này của chúng ta thuyết pháp, thế gian của chúng ta một ngày, ở Ấn Độ là sáu thời sáu thời là ngày ba thời đêm ba thời một thời của Ấn Độ là chúng ta hiện nay chúng ta bốn tiếng đồng hồ, bốn giờ là một chu kỳ, mỗi cách bốn giờ là một lần mưa hoa, thời gian này chẳng quá dài cũng chẳng quá ngắn.

Đây là quang cảnh vô cùng vô cùng đẹp đẽ. Cái thế giới này quả thật là đẹp không xiết kể.
 

BẢO LIÊN PHẬT QUANG

ĐỆ NHỊ THẬP NHẤT
 

Trong phẩm Kinh này Phật vì chúng ta nói rõ Bảo Liên Diệu Quang hiện Phật thuyết pháp, cảnh giới trùng trùng vô tận bất khả tư nghì, xin xem Kinh Văn.

Hựu chúng bảo Liên Hoa, châu mãn thế giới, cho nên Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng gọi là Liên Hoa Thế Giới. Hoa sen của Tây Phương Thế Giới đặc biệt nhiều, hoa sen đặc biệt nhiều. Châu biến nhất trung.

Nhất nhất bảo hoa, bá thiên ức diệp, hoa sen của Tây Phương Thế Giới cùng với hoa sen của chúng ta bên đây khác nhau. Hoa sen của chúng ta bên đây có cánh hoa rất lớn thì không nhiều. Trong Kinh Điển thường thường tán thán mắt của Phật đẹp, mắt của Phật thường sánh như hoa sen xanh.

Quý vị thử nghĩ, nếu giống như cánh hoa sen của chúng ta thì mắt đó chẳng đẹp lắm phải không?

Hoa sen của Tây Phương Thế Giới là giống như bông cúc của chúng ta vậy: Nhỏ dài mà lại nhiều, giống như hoa cúc của thế gian chúng ta cho nên mắt đó rất là xinh đẹp.

Cho nên hoa sen của họ với chúng ta khác nhau, hoa sen của họ có trăm ngàn ức diệp cánh hoa, chữ diệp là nói cánh hoa kỳ hoa quang minh, vô lượng chủng sắc, đây là Phật nói lời thật với chúng ta, hoa sen là vô lượng thứ màu mà chẳng phải chỉ có bốn:

Màu xanh đỏ vàng trắng trong Kinh Di Đà nói có bốn màu, không chỉ là bốn màu là vô lượng chủng sắc. Thanh sắc thanh quang, bạch sắc bạch quang, huyền huỳnh châu tử, quang sắc diệc nhiên, hoa màu gì thì tỏa ra ánh sáng màu đó. Hoa sen phóng quang.

Phục hữu vô lượng, diệu bảo bá Thiên Ma Ni, ánh sức trân kỳ, minh diệu nhật nguyệt, câu này là nói diệu bảo trang nghiêm, hoa đã đẹp vô cùng rồi giữa những đóa hoa. Hoa gian tức là trên mặt hoa đều có vô lượng diệu bảo, đây là ma ni, ma ni là như ý bảo châu.

Hoa sen phóng quang, bảo cũng phóng quang. Câu minh diệu nhật nguyệt ánh sáng của chúng vượt hơn mặt trời, mặt trăng, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng cần đến mặt trời, mặt trăng nên tất cả vạn vật tự mình chúng đều phóng quang, thế giới đó gọi là thế giới quang minh, trong Kinh Phật thường gọi Đại Quang Minh Tạng tức là chỉ cho Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. 

Bỉ Liên Hoa lượng, đây là xem cỡ nhỏ lớn của hoa sen hoặc bán do tuần, đây là cỡ nhỏ, hoa nhỏ là cỡ nữa do tuần hoặc nhất nhị tam tứ do tuần hoặc nãi chí bá thiên do tuần, hoa sen của ao bảy báu lớn nhỏ bất nhất, điểm này chúng ta phải đặc biệt lưu ý.

Nó lớn nhỏ bất nhất, quý vị phải biết công năng của nó là như nhau, công năng chẳng có sai khác, chỉ là lớn nhỏ không đồng nhau, lớn nhỏ làm thế nào mà có?

A Di Đà Phật chỉ biến ra hoa sen cung cấp cho chúng ta còn cái cỡ lớn nhỏ của hoa sen thì sao?

Là cái tâm lượng của chính chúng ta, là công đức niệm Phật của chính chúng ta. Cho nên anh niệm Phật công phu niệm Phật của anh càng sâu thì hoa sen ở Tây Phương Thế Giới lớn, anh niệm Phật niệm được rất cạn khi anh vãng sanh thì hoa sen so với người khác nhỏ hơn, cùng với công phu niệm Phật của anh thành tỉ lệ thuận.

Cho nên quý vị nên biết chúng ta hiện nay sống trong thế gian này, mọi thứ đều là giả cả, chẳng có thứ gì có được cũng chẳng mang đi được, chỗ gọi là sanh chẳng mang đến chết chẳng mang đi là một màn trống không, một cơn mộng.

Duy chỉ có tranh thủ cho được hoa sen lớn nơi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đó mới là thật phải không?

Cái đó thì vĩnh viễn sẽ chẳng tiêu mất, sẽ chẳng diệt mất. Cho nên điểm này chúng ta phải thật sự nỗ lực, nhất định công phu niệm Phật phải sâu, cái này thì chúng ta có thể mang đi được, những thứ khác không thể mang đi được, mang đi được là thật, không mang đi được là giả. Chỉ có niệm Phật là thật, cái này không giả chúng ta nhất định phải ghi nhớ, nhất định phải hết lòng phải nỗ lực.

Nhất nhất hoa trung, xuất tam thập lục, bá thiên ức quang, đây là hoa sen phóng quang, vậy việc phóng quang khi nãy đã nói, cùng với lớn nhỏ chẳng có quan hệ, hoa sen lớn phóng ra ánh sáng cũng bao nhiêu đó, hoa sen nhỏ cũng phóng ra bao nhiêu ánh sáng đó, cho nên công năng là như nhau.

Cỡ hoa lớn nhỏ thì khác nhau, điều này chúng ta phải biết. Vậy quang đều có ba mươi sáu trăm ức quang, ánh sáng lớn nhỏ này tôi nghĩ chắc cũng cỡ lớn nhỏ của hoa sen thành tỉ lệ thuận, hoa sen lớn thì ánh sáng lớn, hoa sen nhỏ thì ánh sáng nhỏ nhưng tầng số của ánh sáng nhất định là thông nhau như vậy mới hợp tình hợp lý.

Nhất nhất quang trung, xuất tam thập lục, bá thiên ức Phật, quang trung hóa Phật vô số ức chúng ta ở chỗ này thấy được, trong bài kệ tán Phật tán thán quang trung hóa Phật vô số ức quang gì đây?

Ánh sáng của hoa sen phóng ra, quang trung hóa Phật, đây là thật tại bất khả tư nghì. 

Thân sắc tử kim, tướng hảo thù đặc, tất cả đều là hóa thân của A Di Đà Phật.

Quý vị thử nghĩ mỗi một đóa hoa sen A Di Đà Phật đều hóa ra vô số ức hóa thân, con số hoa sen của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đẳng giác Bồ Tát đều chẳng tính ra, vậy A Di Đà Phật hóa ra bao nhiêu thân?

Thế giới vô biên, chúng sanh vô biên, Phật nếu chẳng có năng lực này thì làm sao có thể rộng độ chúng sanh, làm sao có thể khiến tất cả chúng sanh trong một đời này viên thành Phật đạo. Chúng ta ở chỗ này thấy được, đức năng của A Di Đà Phật đích thật là siêu việt, vượt ngoài tất cả Chư Phật Như Lai, tướng hảo thù đặc.

Nhất nhất Chư Phật, hựu phóng bá thiên quang minh, Phật lại phóng quang, hoa sen phóng quang. Quang trung hóa Phật, Phật lại phóng quang. Phổ vị thập phương, thuyết vi diệu pháp, thuyết pháp lợi sanh, hóa Phật vì mười phương vô lượng vô biên thế giới tất cả chúng sanh thuyết pháp. Thuyết vi diệu pháp.

Như thị Chư Phật, Như thị Chư Phật là nói quang trung hóa Phật, là những vị Phật này. Các các an lập, vô lượng chúng sanh, ư Phật chánh đạo, mỗi một vị Phật đều an lập vô lượng chúng sanh, quang trung hóa Phật này thật là vô lượng vô biên. Mỗi một vị hóa Phật lại độ vô lượng vô biên chúng sanh. An lập nơi Phật chánh đạo.

Quý vị phải biết chữ chánh đạo này là chỉ cho Tây Phương Tịnh Độ, nói một cách khác chẳng có một vị Phật nào mà chẳng dạy chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, cầu sanh Tịnh Độ là con đường chánh đạo để thành Phật, nơi trong phẩm Kinh này hiển hiện ra, nơi trong Kinh Hoa Nghiêm chỗ nói đến cảnh giới sự sự vô ngại, trùng trùng vô tận, bất tư nghì một cách thâm sâu.

Chúng ta ở trong đoạn Kinh Văn này thấy được trùng trùng vô tận, sự sự vô ngại tây phương Tịnh Độ lấy hoa sen làm Phật Sự, nơi đây chúng ta cũng thấy được, cũng đã thấy qua, bình thường chúng ta cũng nghe nói Liên Hoa Tạng Thế Giới.

Ý nghĩa đó chúng ta rất khó thấu hiểu, đọc đến đoạn Kinh Văn này thì chúng ta hiểu rõ, sự thù thắng của Liên Hoa Tạng Thế Giới bất khả tư nghì. Vẫn thể hội được một tí. Chúng ta lật qua, xin xem đoạn Kinh Văn phía dưới.
 

QUYẾT CHỨNG CỰC QUẢ

ĐỆ NHỊ THẬP NHỊ
 

Phẩm Kinh này, chữ quyết là quyết định, hoàn toàn là ngữ khí khẳng định. Cực quả là Viên giáo Phật, vô thượng, chánh đẳng, chánh giác quyết định chứng đắc, đây tức là cách thuyết minh bốn mươi tám nguyện, đây là nguyện thứ hai mươi chín trụ chánh định tụ và nguyện thứ mười hai định thành Đẳng giác. Xem hiện tượng viên mãn của hai nguyện này của Ngài. Trong phẩm Kinh Văn này.

Kinh Văn không dài, tổng kết thanh tịnh trang nghiêm, cảnh giới trí tuệ viên dung tập hợp lại. Thật tại mà nói là trí cảnh nhất như, nhân quả như như, những người vãng sanh sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới nội vô thủ xả, trụ chánh định tụ quyết chứng cực quả xin xem Kinh Văn.

Phục thứ A Nan! Bỉ Phật Quốc Độ, vô hữu hôn ám, hỏa quang, nhật nguyệt tinh diệu, trú dạ chi tượng, Tây Phương Thế Giới chẳng có những thứ này, thế gian này chúng ta có hoàng hôn, có đêm đêm là tối. Có ánh lửa, có nhật nguyệt, có tinh tú có ngày đêm… có những hiện tượng này.

Ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có, Tây Phương Thế Giới là thế giới quang minh, một bầu quang minh, chẳng có hiện tượng này.

Diệc vô tuế nguyệt, kiếp số chi danh, thế gian chúng ta đây, năm nay là năm nào?

Tháng nào ngày nào?

Thứ mấy…?

Có mấy thứ này?

Ở Tây Phương Thế Giới không có. Tất cả thứ này đều không có.

Lại còn thế giới này của chúng ta mỗi người tên gì, họ gì?

Tây Phương Thế Giới chưa nghe qua.

Anh cư ngụ tại thành phố nào?

Đường nào?

Số nhà bao nhiêu?

Tây Phương Thế Giới cũng chẳng có. Thật lạ lùng. Cho nên có số người sau khi nghe xong thì nổi ngờ vực âu lo rất nhiều.

Vậy nếu sau khi tôi đi đến Tây Phương Thế Giới, chúng ta hai người đều đi, vậy tôi muốn tìm anh đến đâu để tìm?

Tây Phương Thế Giới tuyệt diệu đấy.

So với điện não hiện nay còn tuyệt diệu hơn, bất luận láng giềng hay là thân thích gần xa, sanh đến Tây Phương Thế Giới khi tâm anh vừa động muốn gặp họ thì người đó đã đứng trước mặt anh rồi, đâu cần phải đi hỏi số nhà để tìm, phải không?

Điều đó mất công biết mấy, quá mất công.

Nơi đó vì sao chẳng có?

Quý vị hãy nghĩ cho kỹ những hiện tượng này đều từ trong tâm phân biệt chấp trước biến hiện ra. Người của Tây Phương Thế Giới thanh tịnh chẳng có phân biệt, chẳng chấp trước, cái này chẳng có.

Có nhân thì nó có quả, có quả đương nhiên có nhân, người của Tây Phương Thế Giới chẳng có phân biệt, chẳng chấp trước. Cho nên cảnh giới của họ đẹp đẽ tốt lành như vậy. Tâm địa thanh tịnh quang minh cho nên cảm được cái tướng thế giới quang minh, chẳng có đen tối.

Chúng ta nơi đây lòng người có niệm tốt, cũng có niệm ác, niệm tốt thì là quang minh, niệm ác thì gọi là đen tối, chúng ta thường gọi là hắc tâm, chẳng tốt đó chính là hắc tâm, cảm được đó thì có đen tối. Người của Tây Phương Thế Giới chẳng có, đều là tâm thuần thiện, tâm thanh tịnh, cho nên cảm được đó là một màn quang minh, chẳng có đen tối.

Vậy do đây có thể biết, Thế Tôn vì chúng ta nói kiếp số, những con số này đều là tùy thuận những tập khí phân biệt chấp trước của chúng ta mà nói. Ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có.

Tỉ như nói: Phật nói với chúng ta A Di Đà Phật tại Tây Phương Thế Giới thành Phật đã mười kiếp rồi, mười kiếp này là từ chúng ta nơi đây mà nói, chẳng phải từ Tây Phương Thế Giới mà nói, Tây Phương Thế Giới chẳng có, chẳng có những sự việc này.

Chúng ta biết được đạo lý này, sự thật này, chúng ta cũng rất vui vẻ, cũng rất yên tâm, tại sao vậy?

Tỉ như trong Quán Kinh nói, người hạ phẩm hạ sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mười hai mười hai kiếp thì hoa nở thấy Phật, mười hai kiếp này là thời gian bên đây của chúng ta đó chẳng phải của Tây Phương Thế Giới, Tây Phương Thế Giới chẳng có, là kiếp số bên đây của chúng ta thì thời gian này chẳng dài.

Lại nói tâm hoài nghi khi sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới điều này phía sau chúng ta sẽ đọc đến, tâm hoài nghi khi sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì sanh vào Biên Địa Nghi Thành, sau năm trăm tuổi mới có thể thấy Phật nghe pháp, năm trăm tuổi đó cũng là ở Thế Giới này của chúng ta chẳng phải của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có, làm gì có năm trăm tuổi, năm trăm tuổi là của thế giới chúng ta.

Vậy năm trăm tuổi của thế giới chúng ta đây, ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cái đó ở trong Kinh Vô Lượng Thọ đâu có là bao. Cho nên dù cho là nghi tâm sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng rất là phi thường cũng rất đáng người bội phục, vấn đề này lưu lại phía sau chúng ta sẽ thảo luận trở lại.

Phục vô trụ trước gia thất. Ư nhất thiết xứ, ký vô tiêu thức danh hiệu, diệc vô thủ xả phân biệt, đây là khi nãy vừa nói rồi, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới trụ trước gia thất cũng chẳng có. Chữ vô này chẳng phải anh chẳng có cung điện, chẳng có cư trú, chẳng có thân thể, chẳng phải vậy.

Có cư trú, có cung điện, phía trước đã nói: Nơi ăn, chốn ở mọi thứ đều tự tại. Chữ vô này là không chấp trước, chẳng chấp trước, chẳng có phân biệt. Vì chẳng có phân biệt chấp trước nên cái thế giới đó thật sự bình đẳng, thật sự thanh tịnh chẳng có phân biệt, chẳng chấp trước vậy.

Tốt đẹp đến chỗ cùng cực. Nhất thiết xứ đây là tổng thuyết. Ký vô tiêu thức danh hiệu, như tôi vừa nói ra thí dụ, mọi người sống chung một nơi vẫn chẳng có tên đường, cũng chẳng có số nhà, chẳng có những dấu hiệu này.

Diệc vô thủ xả phân biệt như trong Kinh Kim Cang chỗ nói, điều này thật phù hợp với câu:

Vĩnh ly tứ tướng, tứ kiến Phật trong Kinh Kim Cang nói với chúng ta, cái tiêu chuẩn của Bồ Tát, tiêu chuẩn thấp nhất là phải lìa bốn tướng: Nhược Bồ Tát thủ ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng.

Thọ giả tướng tức Phi Bồ Tát đây là Phật chẳng thừa nhận đó chẳng phải Bồ Tát vì họ còn chấp tướng, họ có phân biệt chấp trước không giống như nhân gian của chúng ta, nơi kia truyền giới thọ xong Bồ Tát giới trở về tức là Bồ Tát rồi, tự cho mình là Bồ Tát, kẻ khác cũng xưng là Bồ Tát, Bồ Tát rồi, họ cho là Bồ Tát rồi.

Anh nên biết, Phật chẳng thừa nhận, Phật vừa nhìn đến, đây chẳng phải là Bồ Tát, vì sao thế?

Vì có bốn tướng, phân biệt chấp trước chưa lìa khỏi, đó là Bồ Tát giả, mạo nhận là Bồ Tát, chẳng phải Bồ Tát thật. Cho nên điều này phải biết.

Bồ Tát Cao Đẳng còn phải phá bốn kiến, Kinh Kim Cang nửa bộ sau so với nửa bộ trước cảnh giới cao hơn, nửa bộ sau chỗ nói đến là nhược Bồ Tát hữu ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến tức Phi Bồ Tát, chỗ này nói: Diệt vô thủ xả phân biệt, bốn tướng, bốn kiến đều chẳng còn là chân Bồ Tát, đó chẳng phải giả là thật, vậy như những người đới nghiệp vãng sanh như chúng ta, những tập khí này thường thường vẫn còn.

Thật tại mà nói là nhờ Phật bổn nguyện oai thần gia trì, chúng ta đi rồi, Bồ Tát giả cũng biến thành Bồ Tát thật, cùng mười phương Thế Giới Chư Phật Như Lai cũng chẳng thể coi rẻ:

Đây là đệ tử của A Di Đà Phật phải đặc biệt đối xử, những người này khác với đại chúng thì anh sẽ nghĩ đến nếu chẳng vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì bốn tướng, bốn kiến thì là khó, nói thì dễ anh nghĩ thử xem anh có thể phá nỗi chăng?

Đây quả thật chẳng dễ dàng. Hồi tưởng lại Tây Phương Thế Giới các thứ trang nghiêm thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, thật sự là có được.

Trong cảnh giới này cũng tức là thường nói: Tâm trí nhất như, tâm tịnh nhất như nội tâm cùng cảnh giới bên ngoài nhất như, tất cả phân biệt chấp trước thảy đều chẳng còn nữa, cái này cũng tức là Thường tịch quang tịnh độ trong bốn độ. Trong phần Kinh Văn này tuy chẳng có viết như vậy nhưng cảnh giới này đã là cảnh giới của Thường tịch quang tịnh độ rồi vậy.

Phía dưới nói: Duy thọ thanh tịnh, tối thượng khoái lạc, cái lạc này chúng ta chẳng nghĩ đến được, chúng ta vô phương thể hội được.

Tại sao chúng ta không thể hội?

Tại vì chúng ta có phân biệt, có chấp trước. Chúng ta ngày này chỗ nói đến chữ lạc này đều là cái lạc trong phân biệt chấp trước của chúng ta, còn cái lạc lìa khỏi phân biệt chấp trước thì anh làm sao có thể thể hội được.

Phía trước Phật cho chúng ta một tỉ dụ: Tỉ dụ lậu tận Tỳ Kheo cái niềm khoái lạc như lậu tận Tỳ Kheo, niềm khoái lạc của lậu tận Tỳ Kheo chúng ta cũng chẳng thể trẩy hội được, đây là nói những gì?

Là nói cạn chẳng phải sâu, trong phiền não chỉ là đem kiến tư phiền não đoạn dứt, cảnh giới của tiểu thừa Tứ quả La Hán chỗ chứng, cái lạc đó của họ chúng ta có thể thể hội đến được, vậy này là đại thừa Bồ Tát, cho dù là những người đới nghiệp vãng sanh, được Phật bổn nguyện oai thần gia trì, từng người từng người đều làm A duy việt chí Bồ Tát A duy việt chí Bồ Tát là Thất địa trở lên, vượt qua Tứ quả La Hán quá nhiều quá nhiều.

Cái lạc của họ chúng ta làm sao có thể tưởng tượng đến được?

Chúng ta thường hay nghe tâm Tịnh Độ Tịnh, độ tịnh tức là hoàn cảnh bên ngoài thanh tịnh. Cảnh giới trên thật tế cũng chẳng phải chúng ta có thể tưởng tượng đến được, vô phương trễ hội. Đây là chân lạc, cho nên xưng là Cực Lạc Thế Giới.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dĩ sanh, nhược đương sanh, giai tất trụ ư, chánh định chi tụ, điều này chúng ta nơi trong bổn nguyện cũng có đọc qua, bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ hai mươi chín, tuy nhiên chánh định ở chỗ này chúng ta có thể khẳng định là phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm thì tâm này định tại danh hiệu.

Danh hiệu của A Di Đà Phật thì định tại Tây Phương Thế Giới y chánh trang nghiêm, đặc biệt là nói về nhược đương sanh, đương sanh chỉ cho hiện tại chúng ta, chúng ta hiện tại niệm Phật phát nguyện vẫn chưa đi là sắp phải đi, đây là đương sanh.

Tâm của chúng ta hiện nay trụ ở chánh định chi tụ. Câu chánh định chi tụ này là nhất tâm nhất ý niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tâm định trên cái này, tuyệt đối chẳng lay động, tuyệt đối chẳng bị tất cả pháp trên thế gian dụ hoặc, lay động. Tâm chúng ta định rồi chẳng bị các pháp môn, tông phái khác của Phật Pháp lay động.

Tâm chúng ta định rồi. Đương nhiên càng chẳng bị các Tôn giáo ngoại đạo khác lay động, đây là chúng ta hiện nay trụ chánh định tụ, tâm đã định rồi thì quyết định tương lai chứng nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đây là nguyện thứ mười hai định thành chánh giác. 

Bởi vì chúng ta hiện nay tâm định thì quyết định vãng sanh, sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới quyết định tam bất hối, quyết định thành Phật.

Hà dĩ cố?

Nhược tà định tụ, cập bất định tụ, bất năng liễu tri, kiến lập bỉ nhân cố, sự thật này chúng ta cũng phải rõ ràng, phải thấu hiểu. Tà định tụ là anh một lòng một dạ đi học các môn phái khác. Đây cũng là chuyên tâm, học các pháp môn khác hoặc giả học các thứ ngoại đạo khác đều rất chuyên tâm để học. Tà định tụ này chẳng thể vãng sanh.

Còn Bất định tụ thì sao?

Đó thì lại càng tệ hại hơn. Cái này cũng muốn học, cái kia cũng muốn học gọi là tạp tu. Tạp tu, loạn tu là bất định tụ cái này đều chẳng thể thành tựu.

Bất năng liễu tri, A Di Đà Phật kiến lập bỉ là chỉ cho Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng tức là chánh nhân của vãng sanh bất thối thành Phật.

Anh chẳng biết Tây Phương Thế Giới cái tình trạng chân chánh này, anh chẳng liễu giải, người của chánh định tụ thì liễu giải rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch. Chương phía dưới đây không dài chúng ta rút lên, bây giờ phải rút tiến độ cho nhanh.
 

THẬP PHƯƠNG PHẬT TÁN

ĐỆ NHỊ THẬP TAM
 

Đây là A Di Đà Phật bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười bảy, sự thực hiện của nguyện thứ mười bảy.

Phục thứ A Nan! Đông phương hằng hà sa số thế giới. Nhất nhất giới trung, như hằng sa Phật, đây là cử ra một phương, cử ra Đông Phương Thế Giới vô lượng vô biên giống như cát Sông Hằng chẳng đếm được, cát Sông Hằng là tỉ dụ. Nhất nhất giới trung, như hằng sa Phật mỗi một vị Phật.

Các xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, thành thật là một tí cũng chẳng giả. Xưng tán Vô Lượng Thọ Phật, bất khả tư nghì công đức.

Đông phương này là nói rất tường tận, nói rất rõ ràng còn các phương khác có thể tóm tắt. Nam Tây Bắc phương, hằng sa thế giới, Chư Phật xưng tán, diệc phục như thị, là giống như phương Đông chẳng khác.

Tứ duy thượng hạ, hằng sa thế giới, Chư Phật xưng tán, diệc phục như thị, tứ duy thượng hạ, tức là chỉ cho mười phương Đông Nam Tây Bắc bốn phương.

Tứ duy là gì?

Là Đông Bắc Đông Nam, Tây Bắc Tây Nam. Bốn gốc này gọi là tứ duy. Tám phương là thượng phương hạ phương. Thập phương thế giới tất cả Chư Phật chẳng có vị Phật nào chẳng tán thán A Di Đà Phật, chẳng có một vị Phật nào chẳng khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Cho nên chúng ta nhất định phải biết, chúng ta ngày nay đã nghe lời của Thích Ca Mâu Ni Phật, phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, không chỉ là khuyến cáo của Thích Ca Mâu Ni Phật, thật tại là mười phương chỗ có tất cả Chư Phật đều là khuyến cáo như vậy.

Chúng ta quả nhiên y giáo phụng hành thì Phật hoan hỷ, tất cả Chư Phật đều hoan hỷ, Phật hộ niệm, Phật thường thường sẽ nhớ nghĩ đến anh, giúp đỡ anh.

Trong lúc anh đang niệm Phật sẽ chẳng làm anh có trở ngại, giúp anh trong một đời này vãng sanh một cách thuận lợi, chỉ cần chính chúng ta tâm định, phía trước nói chúng ta phải trụ chánh định tụ thì được tất cả Chư Phật hộ niệm, con đường vãng sanh này của chúng ta sẽ thuận lợi, sẽ chẳng có một tí chướng ngại.

Giả như anh nói anh niệm Phật vãng sanh có chướng ngại, nói một cách khác nếu anh chẳng phải là tà định tụ thì là bất định tụ, chướng ngại là ở nơi chính mình chẳng phải ở nơi Phật, điều này nhất định phải rõ ràng phải minh liễu. Biết được pháp môn này thật tại bất khả tư nghì.

Bởi vì có một số đồng tu trước kia tu các pháp môn khác hiện nay chuyển trở lại, nghe nói Kinh này hay muốn tu pháp môn này trong lòng thấy lo âu nghi hoặc e sợ có lỗi với các vị Phật Bồ Tát trước kia, tỉ như trước kia niệm Địa Tạng Bồ Tát bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật làm sao chẳng có lỗi với Ngài đây?

Trước kia niệm Kinh Địa Tạng bây giờ không niệm nữa hình như trong tâm rất áy náy, thì đây là sai rồi, quan niệm này quá đổi sai lầm.

Bất luận anh trước kia niệm một vị Phật nào, bất luận anh trước kia niệm một vị Bồ Tát nào?

Niệm Kinh Điển gì?

Ngày nay quay đầu trở lại niệm Kinh Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật thì Chư Phật Bồ Tát đó đều vỗ tay đều hoan nghênh bảo: Chao ơi! Ngươi đúng rồi, ngươi kể như là đúng rồi. Cho nên chớ hoài nghi, đọc xong đoạn Kinh Văn này còn gì để hoài nghi chứ, rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch.

Hà dĩ cố?

Dục linh tha phương, sở hữu chúng sanh, tất cả Chư Phật đều làm một nguyện này. Dục linh tha phương, sở hữu chúng sanh. Văn bỉ Phật danh, phát thanh tịnh tâm, ức niệm thọ trì, quy y cúng dường, tất cả Chư Phật đều hy vọng chúng ta quy y A Di Đà Phật, tất cả Chư Phật đều hy vọng chúng ta cúng dường A Di Đà Phật.

Nãi chí năng phát, nhất niệm tịnh tín, sở hữu thiện căn, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, đây là kỳ vọng của tất cả Chư Phật đối với chúng ta.

Từ mê, tà, nhiễm mà quay đầu, trước kia chúng ta chẳng hay biết, chẳng biết chân tướng sự thật hoặc là bái quỷ thần bái quỷ thần là việc rất bình thường hoặc là học ngoại đạo. 

Hoặc là trong Phật Môn học các pháp môn khác… không như pháp, chẳng biết được đó đều là mê, đều là tà, đều là nhiễm, nếu cùng pháp môn này so sánh đó đều là mê tà nhiễm, chúng ta từ đây để hồi đầu. Lấy đại giác, lấy chí chánh, lấy chân tịnh, lấy giác chánh tịnh.

Mười phương Chư Phật tán thán, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, A Di Đà Phật là chỗ quy y chân chánh của chúng ta. Đây là mười phương chỗ có tất cả Như Lai mách cho chúng ta, chỉ đạo cho chúng ta, dạy chúng ta phát thanh tịnh tâm, ức niệm thọ trì quy y.

Chúng ta chẳng quy y A Di Đà Phật thì quy y ai chứ?

Quy y A Di Đà Phật anh có thể nói sai rồi sao?

Nếu anh đã nói sai vậy thì anh đã phỉ báng Phật, không chỉ phỉ báng một vị Phật mà tất cả chư vị Phật đều phỉ báng, vậy còn kham nỗi được sao?

Tội lỗi này sẽ lớn lắm đấy. Tôi nghe nói có người nói với tôi, có người phê bình tôi, nói tôi nói Tam quy y cuối cùng đều phải quy y A Di Đà Phật, quy y Kinh Vô Lượng Thọ họ đều nói tôi đã nói thái quá lời nói, nói không đúng, nói thái quá chẳng như pháp…

Tôi có căn cứ, tôi căn cứ trên Kinh này mà nói đây là tất cả Chư Phật nói đó làm sao nói sai được!?

Tức là bảo chúng ta quy y A Di Đà Phật, quy y Kinh Vô Lượng Thọ, quy y Quán Âm, Thế Chí vậy sao có thể sai được!?

Tất cả Chư Phật là dạy chúng ta như vậy đó. Cho nên chúng ta từ vô lượng pháp hải hồi đầu. Quy y Kinh Vô Lượng Thọ, nhất tâm ức niệm. Chúng ta trong một đời này quyết định thành tựu.

Trong việc cúng dường, Phổ Hiền Bồ Tát nói với chúng ta: Trong tất cả cúng dường, pháp cúng dường là tối, mười phương tất cả Chư Phật Như Lai lấy phương pháp gì để cúng dường A Di Đà Phật?

Tức là phía trước chỗ nói cực lực tán thán, tuyên dương, khuyên tất cả chúng sanh vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, đây tức là tất cả Chư Phật đối với A Di Đà Phật chân thật cúng dường.

Chúng ta hiểu rõ rồi, chúng ta cũng học Chư Phật Như Lai, tận hư không biến pháp giới tán thán tuyên dương đến khắp nơi khuyên người niệm A Di Đà Phật, họ tin thì rất tốt, không tin cũng tốt, không tin thì sao?

Câu A Di Đà Phật họ nghe vào rồi trong bát thức điền hạt giống ấy đã trồng xuống rồi, đời này không tin không được vãng sanh, vẫn có một ngày nào đó hạt giống mọc lên, duyên của họ thành thục rồi vẫn là lực lượng của hạt giống này giúp đỡ cho họ, phát nguyện niệm Phật được sanh Tịnh Độ.

Tương lai họ vãng sanh cái nhân ấy là do ta giúp họ trồng đó, cho nên phải đi đến khắp nơi khuyên người niệm Phật, khuyên người cầu sanh Tịnh Độ. 

Tự mình càng phải làm một cái gương thật tốt, tương lai khi vãng sanh là tự tại vãng sanh, biết trước giờ đi chẳng có bệnh khổ, lúc vãng sanh tốt nhất là mở một đại hội vãng sanh để chiêu đãi ký giả, chẳng phải mọi người đều đã tin rồi sao.

Phương pháp rất nhiều, đây là đều học theo Chư Phật làm thế nào để cúng dường A Di Đà Phật?

Đây là nguyện sanh bỉ quốc. Tùy nguyện giai sanh, đắc bất thối chuyển, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì viên chứng tam bất thối, cho nên pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, một đời thành tựu Phật Pháp thành tựu ngay trong đời này, phía trước đã cùng quý vị báo cáo qua rồi. 

Chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới là sống mà đi, một đời chẳng có đến đời thứ hai, đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng là một đời thành Phật, cho nên tất cả đều là một đời chẳng có chuyển thế chẳng có trở lại đời thứ hai.

Nền Phật Pháp trong một đời thành tựu, chúng ta nhất định phải trân quý nó, nhất định phải đem cơ hội này nắm cho thật chặt.

Thế gian này việc gì cũng đều là hư vọng, chẳng thật. Cho nên phải đem việc này xem như là một việc đại sự duy nhất phải làm trong một đời này của chúng ta, những việc khác thật sự đều là việc nhỏ nhặt chẳng đáng nói đến, chẳng nên phải đeo mang trong lòng.

A Di Đà Phật!

***