Haèng thuaän chuùng sanh
Tuyø hyû coâng ñöùc

tinhdo.edu.vn

PHẬT THUYẾT KINH PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO LƯỢC GIẢNG - TẬP HAI - A

PHẬT THUYẾT

KINH PHÁT KHỞI BỒ TÁT

THÙ THẮNG CHÍ NHẠO LƯỢC GIẢNG

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP HAI - A
 

Di Lặc Bồ Tát nhân đó hỏi Bồ Tát đời mạt thành tựu mấy pháp để được an ổn độ thoát.

Tiếp theo đây là đoạn thứ năm, Kinh Văn không dài, chỉ có một hàng rưỡi.

Chánh Kinh: Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Nhược hữu Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, thành tựu kỷ pháp, an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát trong đời mạt sau, trong năm trăm năm, khi pháp sắp diệt, nên thành tựu mấy pháp để an ổn, không phiền não hòng được giải thoát. Tôi nghĩ đây cũng là vấn đề chúng ta hết sức quan tâm.

Ư mạt hậu thế, ngũ bách tuế trung là nói đến năm trăm năm đầu tiên trong thời kỳ mạt pháp, năm trăm năm ấy gọi là ngũ bách tuế trung.

Trong pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, chánh pháp tồn tại một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, mạt pháp là một vạn năm. Năm trăm năm đầu của thời kỳ mạt pháp, nói chính xác là hai ngàn năm trăm năm sau khi Đức Phật diệt độ. Bởi thế, câu này chính là nói đến thời đại hiện tại của chúng ta.

Pháp dục diệt thời: Diệt ở đây không phải là thật sự diệt, mà là Phật Pháp ngày càng suy thoái. Chúng ta thấy Phật Pháp trong xã hội hiện đại, đúng là pháp sắp diệt như Đức Phật đã nói.

Đừng tưởng Phật Pháp tại Đài Loan hưng thịnh phi thường, tướng hưng thịnh ấy là giả, chẳng thật đâu, chỉ có thể nói là Phật Pháp tại Đài Loan náo nhiệt mà thôi.

Xưa kia, lão Cư Sĩ Hoàng Niệm Tổ, cụ chưa từng đến Đài Loan giảng Kinh thuyết pháp ở Bắc Kinh đã công khai bảo mọi người: Phật Pháp tại Đài Loan là giả, chẳng phải thật. Phật Pháp chân chánh nằm ở Hoa Lục.

Tôi đến Bắc Kinh, thính chúng đem câu nói ấy hỏi tôi: Phật Pháp tại Đài Loan có phải là giả hay không?

Chư vị hãy chú tâm quan sát một phen: Phật Pháp ở Đài Loan rốt cuộc là thật hay chỉ là giả?

Phật Pháp chân chánh dạy người liễu sanh tử, thoát tam giới, còn Phật Pháp giả dạy người ta tiếp tục gây tạo lục đạo luân hồi. Người Đài Loan tu phước rất nhiều, người tu đạo rất ít.

Người tu phước nhiều thì sẽ đến đâu để hưởng phước ấy?

Vấn đề này lớn lắm đó nghe. Đời sau có được làm người nữa hay không là một vấn đề lớn. Đời sau nếu chẳng được làm thân người thì vẫn có phước báo. Trong đường súc sanh có rất nhiều phước báo đấy chứ. Chúng ta chẳng cần phải tự hào chính mình có phước báo rất lớn. Thật ra, nghĩ lại, bọn ta phước báo kém hơn súc sanh đó nghe.

Quý vị có thấy người ngoại quốc nuôi các con thú cưng chưa?

Bao nhiêu kẻ phục dịch, chăm sóc chúng.

Chúng ta đến những chỗ đó, có ai quan tâm đến mình hay chăng?

Nghĩ ra, phước báo của mình chẳng bằng chúng nó.

Quý vị thấy những con mèo nhỏ, con chó nhỏ đó được chăm sóc chu đáo thì phước báo của chúng do đâu mà có?

Là do đời trước tu đấy. Quan sát nhiều sẽ hiểu rõ, quý vị phải nên thức tỉnh. Đoạn Kinh này nói trong thời đại mạt pháp, chúng ta cần phải thành tựu mấy pháp mới hòng đạt được an ổn, không phiền não, đạt được giải thoát. Ở đây, giải thoát là siêu thoát luân hồi lục đạo.

Điều thứ hai là gì?

Lại còn phải tiến lên, vượt khỏi mười pháp giới thì mới là giải thoát rốt ráo. Bởi lẽ, siêu thoát lục đạo luân hồi vẫn chưa rốt ráo, nhất định phải siêu việt mười pháp giới. Pháp môn Tịnh Độ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chính là siêu thoát mười pháp giới, Tây Phương Tịnh Độ chẳng thuộc trong mười pháp giới.

Phật đáp: Dùng hai loại bốn pháp để được giải thoát.

Chánh Kinh: Phật cáo Di Lặc Bồ Tát ngôn: Di Lặc! Nhược hữu Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, đương thành tựu tứ pháp, an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng: Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, hãy nên thành tựu bốn pháp thì sẽ được an ổn, không phiền não, được giải thoát. Trong đoạn này, Đức Phật dạy chúng ta bốn nguyên tắc vô cùng trọng yếu, ta cần phải tuân thủ. Chẳng cần biết là tu học pháp môn nào, nếu trái nghịch, vi phạm bốn nguyên tắc này thì quý vị sẽ chẳng thể tu học thành tựu.

Chánh Kinh: Hà đẳng vi tứ?

Sở vị: Ư chư chúng sanh, bất cầu kỳ quá.

Những gì là bốn?

Chính là với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ. Chẳng những chỉ đối với các vị Đại Thừa Bồ Tát, mà đối với hết thảy chúng sanh đều chẳng nên gây rắc rối cho họ, đều chẳng nên tìm lỗi lầm của họ.

Câu này giống như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói: Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá.

Nếu là người thật sự tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian. Người chân chánh tu đạo, trong mỗi một niệm chỉ quan tâm đến chánh niệm của chính mình, có thời gian đâu để thấy lỗi lầm của người khác cơ chứ. Chúng ta phải biết điều này, thấy lỗi người khác tức là mình có lỗi sờ sờ.

Nếu tâm quý vị thanh tịnh, không có phiền não, làm sao quý vị thấy lỗi người khác cho được?

Nếu một phen tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài mà trong tâm phiền não bèn hiện hành, thì đấy là do thấy lỗi của người khác. Bởi thế, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát. Bọn ta là hạng nghiệp chướng sâu nặng, thấy Chư Phật, Bồ Tát nghiệp chướng cũng sâu nặng luôn.

Đấy chính như Đức Phật đã dạy: Tướng tùy tâm chuyển. Vì thế, quý vị thấy cảnh giới bên ngoài tướng trạng ra sao thì sẽ biết rõ tâm mình như thế nào. quý vị thấy ai cũng có lỗi lầm nghĩa là chính mình lầm lỗi vô lượng vô biên. Khi nào thấy hết thảy chúng sanh đều chẳng có lầm lỗi thì xin chúc mừng quý vị, quý vị đã thành Phật rồi.

Điều này rất khẩn yếu đấy nhé. Vì thế mới nói với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ chính là điều thứ nhất người tu hành phải tuân thủ.

Điều thứ hai là: Chánh Kinh: Kiến Chư Bồ Tát hữu sở vi phạm, chung bất cử lộ. Thấy các Bồ Tát có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bày.

Bồ Tát ở đây là người hoằng dương chánh pháp. Bất luận là tại gia Bồ Tát hay xuất gia Bồ Tát, cũng chẳng cần biết người ấy là Bồ Tát thật hay Bồ Tát giả, miễn sao những điều người ấy giảng là chánh pháp, chẳng phải là tà pháp, dẫu cho người ấy có lầm lỗi đi nữa, cũng chẳng nghe, chẳng hỏi đến, vẫn cứ sanh tín tâm thanh tịnh, sanh tâm cung kính đối với người ấy. Điều này rất trọng yếu.

Điều thứ ba là: Chánh Kinh: Ư chư thân hữu, cập thí chủ gia, bất sanh chấp trước. Với các thân hữu và hàng thí chủ, chẳng sanh chấp trước.

Đối với chuyện thân hữu, thí chủ cúng dường Pháp Sư, nếu chẳng chấp trước thì sẽ chẳng tạo thành chướng ngại.

Điều thứ bốn là: Chánh Kinh: Vĩnh đoạn nhất thiết thô quánh chi ngôn. Vĩnh viễn dứt trừ hết thảy lời lẽ thô lỗ, hung tợn.

Thô là lời lẽ thô lỗ. Quánh là lời lẽ hung ác. Chẳng được có thái độ như thế. Đức Phật nói bốn điều ấy.

Chánh Kinh: Di Lặc! Thị vi Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, thành tựu tứ pháp an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

Này Di Lặc! Đấy là Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, thành tựu bốn pháp an ổn không phiền não mà được giải thoát. Chỉ cần giữ đúng bốn pháp này là được, quý vị sẽ có thể thành tựu đạo nghiệp.

Chánh Kinh: Nhĩ thời Thế Tôn, dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng. Thể lệ Phật dùng để thuyết Kinh chẳng giống với cách mọi người chúng ta trước tác văn chương. Trong Kinh Phật, có Trường Hàng văn xuôi, có Kệ Tụng, có lúc còn có cả Chú Ngữ. Dụng ý của Ngài rất sâu.

Kệ Tụng gần giống như thi ca của Trung Quốc, cũng có gieo vần, nhưng không câu nệ luật bằng trắc, mục đích là nhằm thuận tiện cho việc ghi nhớ, tụng đọc.

Ấy là vì Đức Phật khai thị điều gì rất trọng yếu xong, sợ bọn ta quên tuốt, Kinh Văn cũng có lúc chẳng nhớ kỹ hết, Ngài bèn dùng Kệ Tụng cho thính chúng dễ thuộc, thường nhớ mãi trong tâm, để hết thảy lúc, hết thảy nơi đều y giáo phụng hành.

Vì thế, Phật bèn nói bốn câu sau đây: 

Chánh Kinh:

Bất cầu tha quá thất

Diệc bất cử nhân tội

Ly thô ngữ, xan lận

Thị nhân đương giải thoát.

Di Lặc! Phục hữu Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, đương thành tựu tứ pháp an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

Chớ tìm cầu lỗi người

Cũng đừng cử tội người

Lìa lời thô, keo bẩn

Người ấy sẽ giải thoát.

Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, nên thành tựu bốn pháp sẽ an ổn, không phiền não, bèn được giải thoát. 

Tiếp theo đây, Đức Phật nói bổ sung bốn câu Kinh cũng vô cùng trọng yếu. Trong phần trên, Đức Phật nói bốn pháp, trong phần này lại nói bốn pháp nữa, tổng cộng là tám pháp. Trong thời hiện tại, chúng ta phải giữ gìn được tám điều này thì học Phật mới có thể thành tựu, chẳng lui sụt.

Chánh Kinh: Hà đẳng vi tứ?

Sở vị: Bất ưng thân cận giải đãi chi nhân.

Những gì là bốn?

Chính là chẳng nên thân cận kẻ biếng nhác. Chúng ta thường thân cận hạng người ấy thì sự tu học của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng. Chúng ta là phàm phu sơ học, chẳng có định lực, thiếu trí huệ, vì thế giao du phải chọn lựa người.

Có khá nhiều bạn đồng tu chẳng hề để tâm cảnh giác điều này, bị hoàn cảnh xoay chuyển, đáng tiếc vô cùng. Đấy chính là điều ta thường gọi là nhân tình Phật Sự, làm Phật Sự theo cảm tình, thiếu lý trí để phán đoán, nó có ảnh hưởng rất lớn đối với hàng phàm phu sơ học.

Học Phật ắt cần phải có lý tánh tức là xử sự theo lý trí, phải buông tình cảm xuống thì mới có thể thành tựu. Pháp thứ nhất nhắm vào ý đó.

Phạm vi của chữ giải đãi hết sức rộng, quý vị có nhận ra hay chưa?

Giải đãi, lười biếng có phải là những người hằng ngày ngủ thật nhiều hay chăng?

Đối với hạng người ấy, đương nhiên quý vị chẳng thể thân cận được. Họ còn bận ngủ, họ cũng chẳng kề cận quý vị được.

Vậy thì ai mới là kẻ giải đãi?

Trước đây, Ấn Quang Đại Sư từng giảng là kẻ nào ưa đến Đạo tràng rất siêng năng, ngày ngày la cà Đạo tràng, ngày ngày tìm náo nhiệt.

Vì sao họ là kẻ giải đãi?

Họ giải đãi đối với việc tu đạo, biếng nhác tu định. Kẻ chẳng tu định, tu huệ, cứ ngày ngày đuổi theo náo nhiệt thì gọi là kẻ giải đãi. Bởi thế, chớ nên hiểu lầm ý nghĩa đoạn Kinh này.

Quý vị đọc Văn Sao, xem Vĩnh Tư Lục sẽ thấy mỗi khi lão Hòa Thượng thấy đệ tử quy y đến thăm, Ngài liền quở mắng: Ngươi đến đây làm chi?

Con đến gặp Sư Phụ.

Trước kia ngươi gặp Sư Phụ rồi, còn đến đây làm chi nữa?

Ngài quát quay về. Đến chỗ bon chen, tâm cũng loạn động theo, bảo ngươi ở nhà thật thà niệm Phật, ngươi chẳng chịu niệm, ngươi vẫn muốn đến Chùa Miếu gặp Sư Phụ, có gì hay mà xem. Đó gọi là giải đãi.

Sở dĩ Ấn Quang Đại Sư nói ra điều gì, ai nấy đều rất tôn kính là vì pháp giáo hóa của Ngài chưa có ai đề xướng cả.

Hiện thời, các Đạo tràng mong mỏi tín đồ đông đảo, tín đồ không đến thì làm sao duy trì được Đạo tràng?

Bởi thế, con người hiện tại đều chuộng náo nhiệt. Náo nhiệt chính là giải đãi. Biếng nhác tu định, tu huệ, tu tâm thanh tịnh. Ở đây, Phật dạy chúng ta chớ nên thân cận những kẻ như thế, đừng ngày ngày bắt chước họ khiến cho tâm bị loạn động.

Điều thứ hai là: 

Chánh Kinh: Xả ly nhất thiết hội náo chi chúng. Rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo.

Không nên ưa thích náo nhiệt không chỉ có nghĩa là chẳng ưa thích những nơi ăn chơi vui vẻ trong thế gian mà ngay cả những chỗ hoan hỷ náo nhiệt nơi cửa Phật cũng chẳng nên ham mến. Nói chung, điều gì trái nghịch với giới, định, huệ. Trái nghịch với giác, chánh, thanh tịnh đều là giải đãi, ồn náo.

Bởi thế, đoạn văn này dung hàm ý nghĩa rất sâu, rất rộng. Mục đích của chúng ta là cầu giải thoát, cho nên phải hiểu rõ hai chữ giải thoát này. Giải là cởi mở.

Cởi mở cái gì?

Cởi bỏ phiền não. Thoát là thoát ly lục đạo luân hồi. Mục đích của việc học Phật là đây. Nếu quý vị chẳng nghĩ đến giải thoát thì chẳng sao, cứ việc ngày ngày lăn vào nơi náo nhiệt. Còn ai là kẻ niệm Phật thật sự mong liễu sanh tử, thoát luân hồi, thật sự cầu vãng sanh Cực Lạc Thế Giới thì nhất định phải tuân thủ lời dạy này.

Trước đây, trong kỳ Phật Thất, Đàm Hư Đại Sư đã từng kể cho chúng ta nghe đôi ba câu chuyện cũ, đều là chuyện thật. Ngài kể một đồ đệ niệm Phật của lão Pháp Sư Đế Nhàn, xuất thân là thợ đóng đai thùng, niệm Phật ba năm bèn đứng mà vãng sanh. Người ấy chưa từng đi học, chẳng hề biết chữ, chỉ là một người rất chân thật.

Sau khi xuất gia, lão Hòa Thượng chỉ dạy ông ta sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, chứ chẳng dạy điều gì khác, chỉ dặn dò: Ngươi cứ niệm một câu Phật hiệu này, niệm mệt thì nghỉ, nghỉ ngơi xong lại niệm tiếp. Quả nhiên, người ấy ở trong một tòa miếu hư nát, không ra khỏi cửa lớn, niệm một câu Phật hiệu suốt ba năm, chẳng bệnh tật gì, biết trước lúc mất, bèn đứng Vãng Sanh. Vãng Sanh rồi vẫn đứng suốt ba ngày để đợi lão Hòa Thượng Đế Nhàn thay mình lo việc hậu sự.

Ông ta dựa vào đâu để thành tựu?

Chính là chẳng thân cận kẻ giải đãi, rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo. Bởi thế nói giải thoát chẳng khó, nhưng sao ngày nay chúng ta học Phật khó khăn đến thế?

Đó là vì chúng ta đã phạm phải lỗi lầm sau đây: Hằng ngày đuổi theo náo nhiệt, coi chuyện đua chen náo nhiệt là làm Phật Sự.

Quý vị nói coi: Đó có phải là vớ vẩn hay chăng?

Quan niệm sai lầm rồi!

Chánh Kinh: Độc xử nhàn tịnh, thường cần tinh tấn. Ở riêng chốn thanh vắng, thường siêng tinh tấn.

Ấy là thật sự mong liễu sanh tử, xuất tam giới, thật sự mong giải quyết xong vấn đề ngay trong một đời này. Quý vị phải nhận biết niềm vui tịch tĩnh. Hoàn cảnh thanh tịnh chính là sự hưởng thụ tối cao của đời người, trong ấy có niềm vui chân thật.

Thế nào là tinh tấn?

Tinh là tinh thuần, chuyên nhất. Tấn là chẳng lùi. Hiện thời, quý vị thấy người học Phật chúng ta cũng rất siêng gắng, nhưng chẳng phải là tinh tấn, mà chỉ là tạp tấn, loạn tấn, nên chẳng có thành tựu. Muốn thành tựu thì phải thâm nhập một môn.

Điều thứ tư là: Chánh Kinh: Dĩ thiện phương tiện, điều phục kỳ thân. Dùng phương tiện khéo điều phục cái thân.

Phương tiện khéo léo điều phục cái thân, trong phần kệ tụng ở phía sau, ta sẽ thấy ý nghĩa này rõ hơn nữa. Câu kệ Tịch tĩnh, thường tri túc nghĩa là điều phục cái thân, biết đủ, thường vui, cuộc sống rất dễ chịu.

Có áo để mặc, có cơm ăn no ba bữa, có căn nhà nhỏ để đụt nắng che mưa, là đủ quá rồi, chẳng cần chi hơn nữa. Có cầu thêm thì chỉ là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, cầu thấy A Di Đà Phật, ngoài ra chẳng cầu cái gì khác nữa. Tâm quý vị định rồi, quý vị sẽ thật sự hưởng thụ an lạc.

Dùng phương pháp ấy để điều phục cái thân, những chuyện người đời tranh giành đều là giả, đều chẳng mang theo được, đều tranh chẳng được, đều là ngu si tạo tác tội nghiệp.

Người thật sự hiểu thấu, người giác ngộ sẽ chẳng thèm tranh nữa, đều buông xuống hết, nhất tâm hướng về đạo. Hướng về đạo là hướng về cái tâm thanh tịnh, hướng đến nguyện vọng cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của chính mình. Trên đây là Đức Phật vì chúng ta lại nói thêm bốn pháp nữa.

Chánh Kinh: Di Lặc! Thị vi Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, thành tựu tứ pháp, an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:

Đương xả ư giải đãi

Viễn ly chư hội náo

Tịch tĩnh, thường tri túc.

Thị nhân đương giải thoát.

Này Di Lặc! Đấy là Bồ Tát vào đời Mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, thành tựu bốn pháp, an ổn, không phiền não, bèn được giải thoát.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:

Hãy bỏ rời giải đãi

Xa lìa các ồn náo

Tịch tĩnh, thường biết đủ

Người ấy sẽ giải thoát.

Phật dùng kệ tụng nhắc lại lần nữa những pháp nghĩa ở trên.

Chánh Kinh: Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thử kệ dĩ, cáo Di Lặc Bồ Tát ngôn: Di Lặc! Thị cố Bồ Tát ư hậu Mạt Thế, ngũ bách tuế thời, dục tự vô não, nhi giải thoát giả, trừ diệt nhất thiết chư nghiệp chướng giả.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ ấy xong, bảo Di Lặc Bồ Tát rằng: Này Di Lặc! Vì thế các Bồ Tát vào đời Mạt sau, trong năm trăm năm, muốn tự không phiền não, được giải thoát, trừ diệt hết thảy nghiệp chướng thì... Đoạn Kinh Văn này dùng để tổng kết các đoạn Kinh Văn trong phần trước.

Di Lặc Bồ Tát thay chúng ta thỉnh giáo Đức Thế Tôn: Trong thời kỳ mạt pháp tức là trong xã hội hiện đại đây, chúng ta học Phật phải nên tu bao nhiêu pháp mới hòng gìn giữ an ổn, được độ thoát?

Đức Thế Tôn dạy chúng ta tu bốn pháp, nói xong, lại dạy thêm bốn pháp nữa. Tổng cộng là tám pháp. Ngài nói xong lại phó chúc Di Lặc Bồ Tát, chứ thật ra là phó chúc mọi người chúng ta, Di Lặc Bồ Tát là người thay mặt cho chúng ta. Đoạn Kinh này hết sức quan trọng.

Nói trong đời mạt sau, lúc năm trăm năm là nói đến xã hội hiện tại. Nếu chúng ta muốn được không phiền não, mong đạt giải thoát hai chữ giải thoát này rất trọng yếu chúng ta đọc chữ giải theo âm quan thoại là xi thì sẽ thành động từ, còn nếu đọc là jẻ sẽ thành danh từ. Tháo gỡ, dứt bỏ phiền não nên gọi là giải trừ. Thoát là liễu thoát lục đạo sanh tử luân hồi mới coi là thành tựu.

Nếu chẳng đoạn phiền não, chẳng thể liễu thoát sanh tử luân hồi, chẳng được kể là thành tựu, bất luận tu pháp môn gì, tu giỏi đến đâu cũng chẳng thành tựu, quý vị vẫn phải sanh tử luân hồi y như cũ. Bởi thế, hai chữ giải thoát trọng yếu phi thường, có thể nói nó chính là mục tiêu tu học hiện tiền của chúng ta.

Điều thứ hai là trừ diệt hết thảy các nghiệp chướng. Tôi tin là người có nguyện vọng đạt mục tiêu thứ nhất liễu sanh tử chẳng có mấy ai, dường như mục tiêu kế đó là tiêu nghiệp chướng thì mọi người đều mong.

Ít người có quan niệm liễu sanh tử, nhưng mong tiêu nghiệp chướng lại rất phổ biến. Nếu như quý vị mong tiêu trừ hết thảy nghiệp chướng thì có tám pháp như vậy, đủ thấy tám pháp ấy hết sức quan trọng.

Tiếp theo đây, Phật nói: Chánh Kinh: Ưng đương xả ly hội náo chi xứ. Phải nên lìa bỏ những nơi ồn náo.

Phải lìa bỏ những nơi ồn náo. Chúng ta là phàm phu, chẳng phải là Thánh Nhân tái lai.

Các vị Phật, Bồ Tát tái lai tu hành chẳng giống chúng ta, mà là: Trong pháp đại thừa, ở trong chỗ ồn náo mà lìa ồn náo, chẳng phải là điều người bình thường có thể làm được. Nếu ta học đòi các Ngài, xa lìa ồn náo trong chỗ ồn náo, ta nhất định đọa địa ngục A tỳ. Bởi thế, chắc chắn là chẳng học được.

Cuối bản Kinh này có nói: Sơ nghiệp Bồ Tát chẳng giống như huệ hạnh Bồ Tát. Huệ hạnh Bồ Tát phá một phần vô minh, chứng một phần pháp thân, họ được Kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Đại Sĩ. Hạnh của các vị ấy đích thực là phiền não chính là bồ đề, sanh tử chính là Niết Bàn. Chúng ta là sơ học Bồ Tát, sanh tử là sanh tử, phiền não là phiền não, tuyệt đối chẳng thể phiền não chính là bồ đề, chúng ta làm không được.

Chúng ta nhất định phải hiểu rõ thân phận mình là như thế nào, trình độ của mình ra sao, phải nên tu học những gì. Hoàn cảnh nhất định ảnh hưởng đến tâm tình của chúng ta. Bất cứ hoàn cảnh bất hảo nào cũng sẽ khiến cho thân tâm ta chẳng đạt được hoàn cảnh thanh tịnh, cho nên nhất định phải xa lìa chúng. Vì thế, Đức Phật mới dạy chúng ta xa lìa những nơi náo nhiệt, xô bồ.

Chánh Kinh: Trụ A Lan Nhã, tịch tĩnh lâm trung. Ở A Lan Nhã, trong rừng vắng lặng.

Tuy câu này tựa hồ để nói với người xuất gia, nhưng người tại gia mà muốn thành tựu thì cũng chẳng thể tránh khỏi.

Bây giờ ta phải hiểu câu Kinh này như thế nào đây?

Chính là dạy quý vị phải chọn lựa địa phương để cư ngụ.

Chúng ta ở chỗ nào mới là tốt?

Ở chỗ nào an tịnh thì mới tốt! Người Trung Quốc đặc biệt những ai sống ở Đài Loan, náo nhiệt đã biến thành thói quen, đột nhiên thanh tịnh thì tựa hồ chẳng thể chịu đựng nổi. Chúng tôi ở ngoại quốc thấy người quen sống ở Đài Loan, đến Mỹ quốc sẽ chẳng thể chịu đựng nổi.

Nước Mỹ rất thanh tịnh, hoàn cảnh cư trú rất êm đềm. Họ quy hoạch từng khu vực rất phân minh, trong khu vực buôn bán nhất định không thể ở được, trong khu vực gia cư nhất định không thể buôn bán được. Họ mong cầu hoàn cảnh yên vắng, tuy khoảng cách giữa các nhà lân cận chẳng xa, nhưng nhất định quý vị chẳng nghe thấy âm thanh nhà hàng xóm.

Đấy là hoàn cảnh cư trú hiện tại của Mỹ quốc, yêu cầu của họ rất phù hợp với điều được dạy trong Kinh này đây. Có những người Trung Quốc già cả, về hưu, sang Mỹ, sống trong hoàn cảnh ấy cảm thấy rất tịch mịch, rất quạnh quẽ nên chẳng sống lâu ở đấy được. Đó đều là vì đã quen ưa chỗ náo nhiệt, đột nhiên an tịnh bèn chẳng thể chịu được.

Thế nhưng Đức Phật dạy chúng ta: Người tu hành nhất định phải sống nơi thanh tịnh. A Lan Nhã Aranya là tiếng Phạn, có nghĩa là chỗ tịch tĩnh. Thời cổ, tiêu chuẩn an tịnh là chẳng nghe thấy tiếng trâu rống.

Do người tu hành quá nửa là sống trong vùng núi hoang, trong thôn quê có nông phu nuôi gia súc. Tiếng trâu rống vang xa nhất. Chỗ nào chẳng nghe thấy tiếng trâu rống, chỗ đấy gọi là A Lan Nhã. Chúng ta phải thấu hiểu ý nghĩa, cảnh giới ấy. Tịch tĩnh lâm trung là chọn lựa chỗ tu học, chọn lựa chỗ cư trú.

Câu thứ ba là: Chánh Kinh: Ư bất ưng tu, nhi tu hành giả, cập chư lãn nọa, giải đãi chi thuộc, giai đương viễn ly.

Với những kẻ tu hành những pháp chẳng nên tu, và những hạng lười nhác, biếng trễ, đều nên xa lìa. Câu này dạy chúng ta phải xa lìa ác tri thức. Hạng người ấy gây trở ngại cho sự tu học của chúng ta, ta cần phải xa lìa.

Ư bất ưng tu, nhi tu hành giả, quý vị thử nghĩ xem, những gì là bất ưng tu chẳng nên tu?

Bọn họ hằng ngày tu những gì?

Tu tham, sân, si đấy! Tu tham, sân, si thì quả báo là tam ác đạo. Chúng ta tu hành mong thành Phật, bọn họ tu hành mong thành ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, đấy là những điều chẳng nên tu. Nhưng người thế gian tu tam ác đạo rất nhiều, trong số đó có cả chúng ta nữa.

Bởi vậy, chúng ta phải tự phản tỉnh, phải tự kiểm điểm xem chính mình có tham, sân, si hay không?

Tập khí tham, sân, si của chúng ta có nghiêm trọng hay không?

Nếu đã có mà lại nghiêm trọng nữa thì phải dùng phương cách đối trị.

Dùng phương cách nào?

Đức Phật dạy chúng ta dùng giới, định, huệ để phá tham, sân, si và những hạng lười nhác, biếng trễ. Đấy mới chỉ là một loại, nếu muốn kể ra thì chẳng thể kể hết được. Đó đều là những hạng trái nghịch lời Phật răn dạy, chúng ta đều phải xa lìa.

Chánh Kinh: Đản tự quán thân, bất cầu tha quá. Chỉ tự xét mình, chẳng cầu lỗi người.

Đây chính là điều Kinh Vô Lượng Thọ dạy tẩy tâm dịch hạnh rửa lòng, đổi hạnh. Người tu đạo chân chánh thường phải phản tỉnh, kiểm điểm lỗi lầm của chính mình, chẳng chuyên chú tìm lỗi người khác. Thấy lỗi người khác là một chướng ngại lớn nhất, quý vị tu học Phật Pháp công phu chẳng đắc lực, chẳng thể thành tựu.

Niệm Phật chẳng những không đạt được sự nhất tâm, mà công phu thành một khối cũng chẳng đạt được, nguyên nhân là vì đâu?

Hằng ngày lo ngó lỗi người khác, hằng ngày kể tội người khác, tạo nghiệp đấy nhé. Dù miệng niệm Phật, nhưng tâm hạnh đều là tạo nghiệp, làm sao quý vị thành tựu cho được.

Vì thế, phải nhớ kỹ: Chỉ tự xét mình, đừng cầu lỗi người.

Chánh Kinh: Nhạo ư điềm mặc. Ưa thích lặng lẽ.

Câu này dạy chúng ta phải an trụ tịnh tu, phải biết thân tâm tịch tĩnh chính là chân lạc.

Chánh Kinh: Cần hành bát nhã Ba la mật đa tương ưng chi hạnh. Siêng hành hạnh tương ứng với bát nhã Ba la mật đa.

Trong sanh hoạt thường ngày, đối đãi người, xử sự, đối đãi với mọi vật, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi đều phải có trí huệ cao độ. 

Bát nhã Ba la mật đa nói theo ngôn ngữ bây giờ là trí huệ cao độ. Chư Phật, Bồ Tát biểu hiện trí huệ cao độ trong từng sanh hoạt, phàm phu sanh hoạt chẳng có trí huệ, chỉ có phiền não. Ở đây, Phật dạy chúng ta phải tương ứng với bát nhã Ba la mật đa.

Bát nhã Ba la mật đa là gì?

Phật nói Kinh Bát Nhã hai mươi hai năm, bản dịch chữ Hán Kinh Đại Bát Nhã gồm sáu trăm quyển. Chúng ta phải tương ứng với bát nhã Ba la mật, nói nghe dễ dàng sao.

Nhưng không tương ứng thì không được. Nhất định phải tương ứng. Bởi vậy, chúng ta phải nắm được cương yếu, tổng cương lãnh của bát nhã. Điều này, cổ nhân đã làm thay cho chúng ta rồi. Dựa theo Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa tiện lắm.

Giản tiện, tinh yếu hơn nữa thì có lẽ mỗi vị đồng tu hằng ngày đều niệm Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, hai trăm sáu mươi chữ. Chúng ta lấy đó làm tiêu chuẩn tu hành, sửa đổi cách nghĩ, cách nhìn, cách nói, cách làm của mình.

Về phương diện ứng dụng bát nhã, Cổ Đức bảo rằng chỉ cần quý vị nắm được hai câu cuối trong một bài kệ của Kinh Kim Cang, ắt quý vị sẽ tương ứng với bát nhã Ba la mật đa.

Hai câu ấy là: Bất thủ ư tướng, như như bất động.

Chúng tôi giảng sơ lược hai câu này như sau: Ngoài chẳng chấp tướng, trong tâm bất động. Bất luận lúc nào, hoàn cảnh nào, đối với người với sự, đối với vật, dù là pháp thế gian hay Phật Pháp đều chẳng có ngoại lệ.

Đối với pháp thế gian chúng ta dùng thái độ đó, đối với Phật Pháp vẫn dùng đúng thái độ đó: Chẳng chấp tướng, chẳng khởi tâm động niệm. Thật sự làm được bất thủ ư tướng, như như bất động thì quý vị chẳng khác gì Phật, Bồ Tát rồi. 

Hai câu này chúng tôi thường diễn tả là buông xuống phóng hạ, buông xuống được. Tổng cương lãnh của Giáo Hạ là Chỉ Quán. Ngài Thiên Thai giảng Ma Ha Chỉ Quán, hai câu trên đây chính là Chỉ, mà cũng là nói đến buông xuống.

Bài kệ cuối cùng trong Kinh Kim Cang là:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ, diệc như điển.

Ưng tác như thị quán.

Hết thảy pháp hữu vi

Như mộng, huyễn, bọt, bóng

Như ánh chớp, như giọt sương

Nên thường quán như vậy.

Bốn câu kệ này thấy thấu suốt, khán phá. Dùng bốn câu kệ này để thấy thấu suốt hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian. Hết thảy pháp là hữu vi, pháp xuất thế gian cũng vẫn là pháp hữu vi.

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta giảng Kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm, thậm chí hết thảy Chư Phật vì chúng sanh giảng Kinh thuyết pháp, toàn bộ là Pháp hữu vi.

Pháp hữu vi là mộng, huyễn, bọt nước, ảnh. Vì thế, Đức Phật mới bảo pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp, pháp còn phải bỏ, huống chi là phi pháp. Pháp là Phật Pháp. Phật Pháp còn chẳng được chấp trước, vậy thì những gì chẳng phải là Phật Pháp đều phải nên bỏ hết. Đấy là lời dạy quý vị phải thấy thấu suốt vậy.

Hết thảy pháp là gì?

Mộng, huyễn, bọt nước, ảnh chẳng phải thật, là giả đó. Điều này chúng tôi đã giảng rất tường tận, rất thấu đáo trong khi giảng Kinh Kim Cang. Câu Như lộ, diệc như điển nói đến huyễn tướng, giả tướng ấy tồn tại trong thời gian rất ngắn. Lộ là giọt sương đọng, tỉ dụ cái tướng tương tục của hiện tượng ấy chỉ tồn tại trong một thời gian, nhưng thời gian ấy chẳng dài lâu.

Như điển, Như ánh chớp là nói sanh diệt trong sát na, nói cách khác là về căn bản nó chẳng hề tồn tại. Trong Phật Pháp có nói bất sanh bất diệt. Bất sanh bất diệt ngụ ý sanh diệt đồng thời. Lúc sanh cũng chính là lúc diệt. Đó chính là chân tướng của hết thảy hiện tượng, rất khó hiểu rõ.

Các nhà khoa học hiện đại đã chứng minh cho chúng ta thấy rồi, điều xác thực là tất cả hiện tượng đều tồn tại trong một thời gian vô cùng ngắn ngủi, gần như chúng ta không có cách nào tưởng tượng được, không cách gì hiểu được nổi. Bài kệ này thuyết minh chân tướng thế gian và xuất thế gian, hễ quý vị thấu hiểu được, quý vị sẽ thấy thấu suốt.

Bởi thế, hai câu kệ trước và bài kệ này là nói đến thấy thấu suốt và buông xuống. Có thể thấy thấu suốt và buông xuống được thì chẳng cần biết là tu học theo tông phái nào hay pháp môn nào, quý vị đều có nhập xứ cả.

Nhập xứ là gì?

Là quý vị đều có thể chứng quả. Chữ nhập này là nhập vào nhất chân pháp giới, nhập bất nhị pháp môn. Nhập được nhất chân pháp giới, bất nhị pháp môn thì chẳng những quý vị vượt khỏi lục đạo, mà còn siêu việt mười pháp giới nữa kia, đấy mới kể là thành tựu viên mãn rốt ráo. Bởi thế, câu này trọng yếu phi thường.

Trong cuộc sống, chúng ta phải tu những gì?

Tu những điều này.

Nếu nói như vậy, cần chi phải cầu sanh Tịnh Độ nữa?

Nếu chẳng cầu sanh Tịnh Độ, quý vị cứ chiếu theo phương pháp này tu hành vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới xong. Sau khi vượt thoát, quý vị muốn chứng viên mãn Bồ Đề thì lại phải tu trọn ba đại A tăng kỳ kiếp.

Thời gian ấy rất dài! Con số ấy là con số dùng trong thiên văn học đấy nhé. Chúng ta thường nói thành Phật phải mất ba A tăng kỳ kiếp, nhưng thời gian ấy chẳng phải là tính từ thời gian hiện tại đâu nhé. 

Lúc quý vị chưa nhập nhất chân pháp giới sẽ không tính, lúc còn tu hành trong lục đạo không tính, lúc còn trong mười pháp giới, dẫu là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đều chẳng tính, phải là vượt thoát mười pháp giới, chứng được nhất chân pháp giới rồi thì kể từ ngày ấy mới tính, phải qua ba đại A tăng kỳ kiếp mới có thể viên mãn bồ đề. Đấy là điều Kinh Điển đại thừa thường nói, nếu quý vị lưu ý một chút sẽ hiểu rõ.

Trong ba đại A tăng kỳ kiếp, A tăng kỳ kiếp thứ nhất chứng được ba mươi địa vị: Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. A tăng kỳ kiếp thứ hai chứng được bảy địa vị từ Sơ địa đến Thất địa. A tăng kỳ kiếp thứ ba chứng được Bát địa, Cửu địa, Thập địa.

Tu trọn ba A tăng kỳ kiếp rồi, quý vị đạt đến địa vị nào?

Pháp Vân địa Bồ Tát, vẫn chưa đạt tới địa vị Đẳng giác. Còn phải đạt tới Đẳng giác mới là thành Phật. Chúng ta thấy lại phải tốn thêm một A tăng kỳ kiếp nữa mới thành công. Đó là nói trong trường hợp quý vị chẳng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.

Nếu cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ thì sao?

Ái chà! Quý vị chiếm tiện nghi lớn lắm. 

Quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, thân phận chúng ta là phàm phu nghiệp chướng, hạ hạ phẩm vãng sanh một phẩm phiền não còn chưa đoạn được, đến Thế Giới Cực Lạc rồi muốn chứng được Phật Quả viên mãn rốt ráo thì phải mất bao lâu?

Trong quá khứ, khi giảng Kinh chúng tôi đã nói bao nhiêu lần rồi, chúng tôi dựa theo Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà tính toán tỉ mỉ thì khoảng ba bốn kiếp là thành công. Ba kiếp, bốn kiếp thôi nhé. Nếu quý vị chẳng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ thì phải mất ba đại A tăng kỳ kiếp, chẳng thể so sánh được nổi.

Chúng tôi nói rút gọn ý nghĩa này lại cho quý vị nghe: Chẳng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, quý vị tu hành chứng quả thì phải cần ba vạn năm mới có thể thành công.

Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì cần bao nhiêu thời gian?

Ba ngày là thành công. Quý vị cứ tính toán đi. Đó là lý do vì sao chúng ta y chiếu bát nhã Ba la mật đa tu hành, nhưng vẫn phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Quý vị hiểu rõ đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật này thì quý vị mới chết lòng sát đất niệm Phật cầu sanh, mà cũng chẳng hoài nghi, chẳng còn do dự. Đây là nói về tự hạnh.

Chánh Kinh: Nhược dục ư bỉ chư chúng sanh đẳng, thâm sanh lân mẫn, đa sở nhiêu ích, ưng dĩ vô hy vọng tâm thanh tịnh thuyết pháp. Nếu đối với những chúng sanh ấy, sanh lòng thương xót sâu xa, muốn làm nhiều điều lợi ích cho họ thì phải dùng tâm không mong cầu mà thanh tịnh thuyết pháp. Câu này nói về lợi tha.

Bồ Tát luôn có tâm từ bi, thấy chúng sanh rất khổ, rất đáng thương, nói chung là muốn giúp đỡ họ, nhưng rất đáng tiếc là chính mình không có trí huệ thì rốt cuộc phải giúp đỡ bằng cách nào đây?

Càng giúp càng rối thêm, chúng ta thấy rất nhiều trường hợp như vậy.

Giúp đỡ như thế nào mà càng rối thêm?

Giúp họ đọa tam đồ, đẩy họ đọa vào địa ngục, còn bảo là mình tạo công đức rất lớn. Oan uổng quá!

Ở chỗ này, quý vị phải đọc kỹ bộ Kinh này, mới hiểu rõ: Chúng ta thường nói mình độ chúng sanh, cứu tế những người khổ nạn, nhưng rốt cuộc là chúng ta đã làm những việc gì?

Chúng ta tạo nhân quả như thế nào?

Ta cần phải làm những gì thì mới đúng lý, đúng pháp, mới có thể thành tựu chính mình, giúp đỡ người khác?

Kinh này dạy thâm sanh lân mẫn, đa sở nhiêu ích.

Nhiêu là phong phú, phong nhiêu, cũng có nghĩa là lợi ích tối cao, lợi ích thù thắng nhất: Giúp cho người khác giác ngộ, chứ chẳng phải nói đến thứ gì khác. Giúp họ nhận biết Phật Giáo Đại Thừa, giúp họ nhận hiểu Tịnh Độ, lợi ích ấy vô lượng vô biên.

Nên dùng thái độ như thế nào?

Dùng tâm không mong cầu để giới thiệu Phật Pháp cho họ. Nếu như thuyết pháp cho họ mà có tâm mong mỏi nơi họ thì là trật rồi. 

Lúc dùng tâm không mong cầu để hành pháp thí, sẽ thành hai mươi điều lợi, và lại thêm hai mươi điều lợi nữa. Theo cách Đại Sư Ngẫu Ích phán định, chia Kinh này thành tất cả mười lăm đoạn, đoạn chúng tôi sẽ giảng dưới đây là đoạn thứ tám.

Chánh Kinh: Phục thứ Di Lặc! Nhược Bồ Tát dĩ vô hy vọng tâm, hành pháp thí thời, bất trước danh, văn, lợi, dưỡng, quả, báo, dĩ nhiêu ích sự nhi vi thượng thủ, thường vị chúng sanh, quảng tuyên chánh pháp.

Lại này nữa Di Lặc! Nếu Bồ Tát dùng tâm không mong cầu, lúc hành pháp thí, chẳng chấp vào danh tiếng, lợi dưỡng, quả báo, lấy sự nhiêu ích làm đầu, thường vì chúng sanh rộng nói chánh pháp.

Vô hy vọng nói cụ thể là ta chẳng mong mỏi những điều gì?

Điều thứ nhất là danh, chẳng vì cái danh, mà cũng chẳng vì văn. Văn nói theo ngôn ngữ ngày nay là mức độ nổi tiếng. Chúng ta chẳng vì những thứ đó. Hiện thời, có những vị đồng tu in những cuốn sách nhỏ.

Có một lần ở phi trường, tôi thấy một vị đồng tu cầm cuốn sách nhỏ để đọc ở đó, đại khái là Vô Lượng Thọ Kinh. Trang đầu cuốn sách ấy in một tấm hình của tôi, tôi thấy là do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội ấn tống, thật là hồ đồ, phiền toái quá. Không nên như vậy.

Quý vị làm vậy tưởng chừng như tôn trọng tôi, chứ thật sự ra là gì?

Chỉ là đề xướng danh văn, lợi dưỡng, đề xướng bất tịnh thuyết pháp. Đầu cuốn Kinh in hình Phật, hình Bồ Tát thì được, chứ quyết định chẳng thể in hình ai, tuyệt đối chẳng được. Pháp thế gian có chỗ đáng học theo, nhưng có chỗ chẳng nên bắt chước. Minh tinh điện ảnh gây chú ý, họ đăng ảnh quảng cáo rất nhiều. Lúc chúng ta thuyết pháp, quyết định chớ nên làm giống như thế.

Lúc phát thiếp thông báo thuyết giảng, nếu cứ phải in hình Pháp Sư lên trên ấy thì có khác gì minh tinh quảng cáo đâu. Người thật sự có đức xem thấy, họ không trách quý vị nhưng cũng chẳng đến dự. Trên thiếp thông báo in hình Phật, hình hoa sen thì được, ngàn vạn phần chẳng nên in hình ai.

Điều này quý vị phải nhớ lấy, tuyệt đối đừng tạo danh văn. Lợi là lợi ích, dưỡng là cúng dường. Chẳng vì những thứ này mà thuyết pháp.

Nếu chẳng vì những thứ này, lại có người vì những thứ gì?

Vì quả báo. Tôi làm như thế tương lai sẽ thành Phật, thành Bồ Tát. Ý niệm thành Phật, thành Bồ Tát cũng phải bỏ sạch đi, cái gì cũng chẳng cầu thì quý vị mới thật sự thành tựu. Quý vị nghĩ tôi muốn chứng A La Hán, thành Bích Chi Phật, thành Bồ Tát thì gọi là khởi vọng tưởng, là tiêu chuẩn của phàm phu. Họ mong mỏi thì nhất định họ sẽ chẳng đạt được.

Vì sao vậy?

Chư Phật, Bồ Tát tâm địa thanh tịnh, một niệm chẳng sanh, làm sao còn có vọng niệm cơ chứ?

Thành Phật, thành Bồ Tát là bọn phàm phu chúng ta nói, chứ chính các Ngài chẳng hề nói mình thành Phật, thành Bồ Tát. Kinh nói các Ngài thành Phật, thành Bồ Tát là tùy thuận chúng sanh mà nói. Chúng sanh hiểu như vậy cho nên Phật nói thuận theo chúng sanh, chứ trong tâm các Ngài tuyệt đối chẳng có ý niệm ấy.

Chẳng những Chư Phật, Bồ Tát không có ý niệm ấy, chúng ta xem trong Kinh Kim Cang, Tu Đà Hoàn cũng chẳng có ý niệm ấy. Chúng ta mới nhận thức rõ ràng là tiểu thừa Sơ quả còn chẳng có ý niệm ấy, nên các Ngài mới chứng được Sơ quả. Nếu có ý niệm ấy, các Ngài chẳng thể chứng Sơ quả.

Vì sao vậy?

Còn có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. Có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì là lục đạo phàm phu, chẳng phải là Thánh Nhân. Bởi thế, những lời Phật răn dạy ở đây gọi là lời răn dạy chân thật, chúng ta chẳng nên có những ý niệm như thế.

Đối với chúng sanh, nhất định phải lấy nhiêu ích làm đầu. Nói theo ngôn ngữ hiện thời, nhiêu ích là lợi ích lớn nhất, thù thắng nhất, là giúp đỡ hết thảy chúng sanh, lấy đó làm điều ưu tiên. Thù thắng nhất, thù thắng khôn sánh là dạy chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Pháp môn này gọi là pháp khó tin, làm sao khiến cho họ tin tưởng?

Điều này rất trọng yếu. Bởi thế, tự mình phải nỗ lực tu hành.

Nếu chính mình chẳng tu hành, làm sao khiến người khác tin tưởng?

Nhất định phải lấy chính mình làm gương tốt nhất để chúng sanh trông vào, họ không tin cũng không được. Chính tôi khi học Phật, lúc chúng tôi gặp thầy Lý Bỉnh Nam vào năm ấy, thầy Lý ước chừng bảy mươi mốt tuổi, so với tôi, tuổi tác chênh lệch rất nhiều.

Thế mà tôi thấy thầy Lý nhiều lắm là bốn mươi tuổi, mà sao cũng chẳng thấy cụ đã ngoài bảy mươi à nghe. Là vì tinh thần cụ sung mãn, thanh âm vang rõ, mắt nhìn cũng chưa quáng. Chúng tôi thường ở cùng một chỗ đọc sách tra tự điển.

Thầy bảo tôi tra, lúc tra xong, thầy nói: Cầm đến đây tôi đọc cho các anh nghe để coi thị lực của tôi ra sao?

Cụ đọc không sai một chữ.

Chữ trong tự điển so với chữ in trong báo còn nhỏ hơn nữa, cụ chẳng cần phải đeo kính lão, vì sao?

Là để biểu diễn cho chúng tôi thấy, chúng tôi chẳng thể không tin. Nếu nói một người tu hành vừa khô héo, vừa còm cõi, vừa chẳng có tinh thần, chúng ta trông thấy người như vậy sẽ chẳng có tín tâm.

Quý vị học Phật phải nêu gương tốt cho người khác thấy, người ta mới tin tưởng chứ. Thấy quý vị học Phật mấy năm, khô cằn, héo hon, còm cõi, quý vị nói cách nào, nói nghe hay đến đâu đi nữa, người khác cũng chẳng dễ gì tiếp nhận, mà cũng chẳng tin tưởng.

Bởi vậy, quý vị phải triển khai cho người ta thấy, họ thấy xong, nếu họ rất hâm mộ, thì quý vị mới bảo họ: Các vị làm như vậy đó thì các vị sẽ giống như tôi, so ra còn giỏi hơn tôi nữa đó. Tướng tùy tâm chuyển, cảnh tùy tâm chuyển. Cảnh là hoàn cảnh sanh hoạt của chúng ta. Quý vị phải hiểu rõ ý nghĩa này, quý vị có thấy hiện thời không ít người hô hào cải biến thể chất. Cải biến thể chất là một khẩu hiệu không ít người bị mắc lừa.

Những ai bị lừa?

Là do những người ấy có ham muốn như thế, người ta bèn chế ra các món thuốc thang.

Ôi! Những món thuốc ấy có ích chi đâu. Những dược vật tưởng là hữu ích, kỳ thật là độc dược.

Quý vị dùng những dược vật ấy, có ai biến đổi được thể chất hay chăng?

Tôi chẳng thấy có ai đạt hiệu quả cả, đủ thấy là bị lừa, bị gạt gẫm rồi.

Phật dạy chúng ta phương pháp hữu hiệu nhất: Tâm địa thanh tịnh, chân thành, từ bi, thì thể chất quý vị sẽ biến đổi. Tâm thanh tịnh khiến cho những gì tệ hại trên thân thể quý vị biến mất, thân thể quý vị bèn thanh tịnh, chẳng bị ô nhiễm. Hiện thời, ăn bất cứ gì, đồ ăn uống nào cũng đều có chất độc cả.

Dùng gì để tiêu trừ chất độc đây?

Dùng tâm từ bi để tiêu độc.

Do vậy, nếu tâm địa quý vị thanh tịnh, từ bi, lẽ nào chẳng được khỏe mạnh?

Quý vị bảo thân mình đau bệnh thì nói cách khác là quý vị thiếu tâm từ bi, tâm quý vị chẳng thanh tịnh. Quý vị nói mình thanh tịnh, từ bi đều là giả, chẳng phải thật. Phật chẳng dối người, Đức Phật chẳng cho ta dược vật nào. Đức Phật dạy ta tự điều chỉnh thân tâm mình, chẳng vì danh, văn, lợi, dưỡng, quả, báo, những thứ ấy phải bỏ sạch hết cả đi.

Chánh Kinh: Thường vị chúng sanh, quảng tuyên chánh pháp, đương đắc thành tựu nhị thập chủng lợi.

Thường vì chúng sanh rộng nói chánh pháp, sẽ được thành tựu hai mươi điều lợi. Hai mươi điều lợi này tự nhiên có, chẳng cần phải cầu. Chẳng cầu mà có, trái lại nếu cầu sẽ chẳng được đâu.

Vì sao vậy?

Bởi ý niệm mong cầu ấy là nhiễm ô, là chẳng thanh tịnh, cho nên quý vị chẳng đạt được. Quý vị đừng cầu, chẳng cầu sẽ được.

Chánh Kinh: Vân hà danh vi nhị thập chủng lợi?

Thế nào là hai mươi điều lợi?

Dưới đây, Kinh nói cho chúng ta biết.

Chánh Kinh: Sở vị: Chánh niệm thành tựu.

Chính là: Chánh niệm thành tựu.

Đây là điều lợi thứ nhất. Chánh niệm là vô niệm. Lại sợ quý vị niệm gì cũng chẳng có, bèn biến thành Vô Tưởng Định thì hỏng mất. Quả báo của Vô Tưởng Định là ở tại Trời Vô Tưởng trong Tứ Thiền Thiên, thế là học Phật lại trở thành học ngoại đạo mất rồi.

Bởi thế, Phật mới dạy chúng ta vô niệm là không có tà niệm thì mới gọi là chánh niệm. Chánh niệm là niệm của Phật, Bồ Tát, tương ứng với Phật Pháp.

Điều thứ hai là: 

Chánh Kinh: Trí huệ cụ túc. Đầy đủ trí huệ. Trí huệ là tác dụng do tâm thanh tịnh phát khởi, phiền não là tác dụng do tâm nhiễm ô phát khởi. Thân tâm thanh tịnh thì trí huệ tăng trưởng.

Điều thứ ba là:

Chánh Kinh: Hữu kiên trì lực. Có sức kiên trì.

Sức kiên trì từ đâu sanh?

Từ trí huệ sanh. Người ấy thông đạt, hiểu rõ hết thảy sự lý, chẳng mê hoặc mảy may, bởi thế người ấy làm gì cũng thông suốt từ đầu đến đuôi.

Điều thứ bốn là: 

Chánh Kinh: Trụ thanh tịnh hạnh. Trụ hạnh thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, hành vi thanh tịnh.

Điều thứ năm là: 

Chánh Kinh: Sanh giác ngộ tâm. Sanh tâm giác ngộ. Niệm niệm giác chẳng mê.

Điều thứ sáu là:

Chánh Kinh: Đắc xuất thế trí. Đắc xuất thế trí.

Làm thế nào để vượt thoát lục đạo luân hồi?

Làm sao để vượt thoát mười pháp giới?

Người ấy hiểu rất rõ ràng, rất minh bạch.

Chánh Kinh: Bất vị chúng ma chi sở đắc tiện. Chẳng bị các ma thừa dịp làm hại.

Nói theo ngôn ngữ bây giờ là quyết định chẳng để cho yêu ma, quỷ quái nắm đằng chuôi. Đắc sở tiện nghĩa là bị người khác thao túng. Yêu ma, quỷ quái định khống chế quý vị mà quý vị đã hiểu đạo lý này, tâm địa của quý vị thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, yêu ma quỷ quái chẳng còn cách nào làm gì được quý vị cả.

Những gì là nhược điểm để yêu ma quỷ quái lợi dụng?

Chính là danh, văn, lợi, dưỡng, quả, báo. Hễ quý vị có những ý niệm ấy thì sẽ bị chúng thao túng, bị chúng khống chế.

Các vị đồng tu chúng ta đã từng coi qua Tây Du Ký hay chưa?

Trong Tây Du Ký có Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại, nhưng hắn bị Quán Thế Âm Bồ Tát nắm chuôi, suốt đời bị Ngài khống chế, chẳng ra khỏi lòng bàn tay của Ngài được.

Những gì là nhược điểm của hắn?

Thích đội cái mũ cao. Tôn Ngộ Không thích được người khác săn đón, thích được khen thưởng, đấy chính là chỗ yếu của hắn. Bởi thế, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát mới tặng cho hắn cái mũ cao để đội, đội vào rồi Ngài bèn niệm chú Kim Cô, hắn bèn bị khống chế.

Vì thế, quý vị háo danh, háo lợi, thích được cúng dường, ham quả báo, sẽ bị người ta nắm thóp ngay, bị người khác khống chế dễ dàng. Nếu quý vị chẳng ham thích chi hết, họ chẳng có cách nào hết, đối với quý vị họ không biết làm cách nào.

Chỉ cần quý vị có chút vọng tưởng, có chút ý niệm, có chút dục vọng, quý vị bèn bị ma khống chế ngay. Suy nghĩ cặn kẽ, sẽ thấy ý nghĩa của câu Kinh này rất sâu rộng.

Điều thứ tám, thứ chín, thứ mười là: 

Chánh Kinh: Thiểu ư tham dục, vô hữu sân nhuế, diệc bất ngu si.

Ít tham dục, chẳng nóng giận, cũng chẳng ngu si. Ba câu này chính là thành tựu ba thiện căn. Ba thiện căn là vô tham, vô sân, vô si. Có thể thấy là nếu tham chấp danh, văn, lợi, dưỡng, quả, báo sẽ chẳng có ba thiện căn.

Cớ sao quý vị hằng ngày cứ tăng trưởng tham, sân, si?

Đoạn Kinh trên đây nói về ba thiện căn hiện tiền vậy.

Điều thứ mười một là: Chánh Kinh: Chư Phật Thế Tôn chi sở ức niệm. Được Chư Phật Thế Tôn nghĩ nhớ.

Đây là được Chư Phật hộ niệm, vì sao vậy?

Tâm tâm tương ứng Chư Phật, cho nên cảm được Chư Phật hộ niệm.

Chánh Kinh: Phi nhân thủ hộ. Được phi nhân bảo vệ, gìn giữ. Chữ phi nhân chỉ quỷ thần. Quỷ thần cũng bảo vệ, giúp đỡ quý vị.

Chánh Kinh: Vô lượng Chư Thiên gia kỳ oai đức. Vô lượng Chư Thiên tăng thêm oai đức. Câu này ý nói Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp thần. Hộ Pháp thần bảo vệ, giúp đỡ quý vị đấy.

Chánh Kinh: Quyến thuộc thân hữu vô năng trở hoại. Quyến thuộc, thân hữu không ai có thể ngăn trở, phá hoại. Một người tu cho tốt, cả nhà cũng được hưởng lây, người nhà, quyến thuộc đều được hưởng lợi ích như quý vị, đều hưởng nhờ phước báo của quý vị.

Chánh Kinh: Hữu sở ngôn thuyết, nhân tất tín thọ, bất vị oan gia ty cầu kỳ tiện.

Nói ra điều gì, người khác đều tin nhận, chẳng bị oan gia bới tìm khuyết điểm. Từ vô thỉ kiếp đến nay, đã kết oán rất nhiều đối với hết thảy chúng sanh, bởi thế gặp rất nhiều chướng ngại trên đường đạo bồ đề, ấy là ma chướng đó. 

Chẳng phải là oan gia, chủ nợ dung tha quý vị đâu nhé, chỉ vì quý vị chẳng hề chấp vào danh, văn, lợi, dưỡng, quả, báo nên oan gia chủ nợ cũng chẳng biết làm sao.

Họ Chánh Kinh: Đắc vô sở úy. Được không sợ hãi.

Điều thứ mười tám là: 

Chánh Kinh: Đa chư khoái lạc. Ta thường gọi điều này là pháp hỷ sung mãn.

Điều thứ mười chín là: 

Chánh Kinh: Vị chư trí nhân chi sở xưng thán. Được những người trí khen ngợi. Người có trí huệ thật sự trông thấy quý vị sẽ khen ngợi.

Điều thứ hai mươi là: 

Chánh Kinh: Thiện năng thuyết pháp, chúng nhân kính ngưỡng. Khéo có thể thuyết pháp, mọi người kính ngưỡng.

Lời quý vị nói ra, tuy là mượn lời Chư Phật, Bồ Tát hoặc lời của các vị Tổ sư đại đức, nhưng vì tâm quý vị chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, dù mượn lời Kinh Sách của người khác, nhưng lời ấy từ tự tánh lưu lộ ra ngoài, đó gọi là khéo có thể thuyết pháp khiến người nghe rất cảm động, tạo ấn tượng sâu đậm, chứ chẳng phải là chiếu theo Kinh Văn mà phân khoa. Thuyết pháp như thế chẳng thể làm cho người khác được lợi ích chân thật.

Phật giảng cho ta nghe hai mươi điều, đều là những lợi ích tự nhiên đạt được, tuyệt đối chẳng phải là do mong cầu mà có.

Chánh Kinh: Di Lặc! Thị vi Bồ Tát đương đắc thành tựu nhị thập chủng lợi. Bất trước danh văn, lợi dưỡng, quả báo, hành nhiêu ích sự nhi vi thượng thủ, thường vị chúng sanh dĩ vô hy vọng tâm, thanh tịnh thuyết pháp.

Này Di Lặc! Đấy là hai mươi điều lợi mà Bồ Tát sẽ được thành tựu, chẳng chấp vào danh văn, lợi dưỡng, quả báo, lấy việc nhiêu ích làm đầu, thường vì chúng sanh dùng tâm chẳng mong cầu thanh tịnh thuyết pháp.

Câu này là Đức Phật lại phó chúc, lại dặn dò một lần nữa. Phật nói hai mươi điều lợi, tiếp theo đây Ngài lại nói hai mươi điều lợi khác, đủ thấy tâm không mong cầu thanh tịnh thuyết pháp cho chúng sanh thì công đức lợi ích vô lượng vô biên.

Chúng ta xem đoạn kế tiếp như sau: 

Chánh Kinh: Phục thứ Di Lặc! Nhược Bồ Tát dĩ vô hy vọng tâm, hành pháp thí thời, bất trước danh văn, lợi dưỡng, quả báo, dĩ nhiêu ích sự nhi vi thượng thủ, thường vị chúng sanh quảng tuyên chánh pháp, hựu năng thành tựu nhị thập chủng lợi.

Lại này Di Lặc! Nếu Bồ Tát lúc hành pháp thí, do tâm không hy vọng, chẳng chấp vào danh văn, lợi dưỡng, quả báo, lấy việc nhiêu ích làm đầu, thường vì chúng sanh rộng tuyên chánh pháp, sẽ lại thành tựu hai mươi điều lợi.

Hai mươi điều lợi này, quá nửa là những điều người thuyết pháp thường mong mỏi: Cầu hiểu rõ lý luận, phương pháp, đấy gọi là như lý, như pháp. Trong nhà Phật, có cầu ắt ứng.

Thế nào là như lý, như pháp?

Chẳng cầu danh văn, lợi dưỡng, quả báo là như lý, như pháp. Dùng tâm thanh tịnh vì chúng sanh thuyết pháp chính là tâm không mong cầu, thanh tịnh thuyết pháp vậy.

Chánh Kinh: Vân hà danh vi nhị thập chủng lợi?

Sở vị: vị sanh biện tài, nhi năng đắc sanh.

Thế nào là hai mươi điều lợi?

Chính là: Biện tài chưa sanh sẽ được sanh khởi. Đây là lợi ích thứ nhất. Rất nhiều người mong được biện tài vô ngại.

Biện tài vô ngại do đâu mà có?

Ở đây, Đức Phật dạy cho chúng ta biết: Vô ngại biện tài là tánh đức của chính mình, trong bản tánh vốn đã sẵn có.

Vì sao hiện tại chưa có được biện tài này?

Chưa có là do còn có chướng ngại, nghiệp chướng đó mà. Ấy là vì trong quá khứ và hiện tại tạo tác khẩu nghiệp quá nhiều nên chẳng có biện tài. Tâm chẳng thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, biện tài bèn khôi phục.

Điều thứ hai là: 

Chánh Kinh: Dĩ sanh biện tài, chung bất vong thất. Biện tài đã sanh, trọn chẳng quên mất. Quý vị đã đắc thì biện tài ấy thì sẽ chẳng bị mất đi.

Điều thứ ba là: 

Chánh Kinh: Thường cần tu tập, đắc Đà Ra Ni. Thường siêng tu tập, đắc Đà Ra Ni.

Đà ra ni dhāranī là tiếng Phạn, nói theo ngôn ngữ hiện thời là cương lãnh. Chẳng cần biết quý vị tu học pháp môn nào, hễ quý vị nắm được cương lãnh, nắm được đại cương của pháp ấy thì lúc quý vị tu học rất dễ thụ dụng.

Điều thứ bốn là: 

Chánh Kinh: Dĩ thiểu công dụng, thiện năng lợi ích vô lượng chúng sanh. Dùng ít công sức mà khéo có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.

Chẳng cần phải mất nhiều thời gian, cũng chẳng cần phải đổ nhiều tinh thần, vẫn có thể lợi ích rất nhiều chúng sanh. Có thể thấy đó là biểu hiện của trí huệ cao độ, thiện xảo vậy.

Điều thứ năm là: 

Chánh Kinh: Dĩ thiểu công dụng, linh chư chúng sanh khởi tăng thượng tâm, cung kính tôn trọng. Dùng công sức ít mà khiến cho chúng sanh khởi lòng tăng thượng, cung kính, tôn trọng.

Cung kính, tôn trọng là đối với Tam Bảo mà nói. Một phần cung kính được một phần lợi ích, một phần tôn trọng được một phần lợi ích. Nếu chẳng cung kính, tôn trọng, dù Chư Phật, Bồ Tát có thuyết pháp hay khéo đến đâu, người nghe cũng chẳng đạt được lợi ích. Vì thế, điều này rất là trọng yếu.

Điều thứ sáu là: 

Chánh Kinh: Đắc thân khẩu ý thanh tịnh luật nghi. Thân, miệng, ý phù hợp luật nghi thanh tịnh. Đây chính là tam nghiệp thanh tịnh.

Điều thứ bảy là: 

Chánh Kinh: Siêu quá nhất thiết ác đạo bố úy. Vượt qua khỏi hết thảy những đường ác, những sự sợ hãi. Đây là chuyện đương nhiên. Dù tự mình có chủng tử ác nghiệp, nhưng trong đời này vì mình đã đoạn hết ác duyên nên chủng tử ác chẳng có duyên để kết quả.

Chẳng những đoạn sạch duyên trong tam ác đạo, mà duyên trong lục đạo cũng đoạn sạch. Chẳng những đoạn sạch các duyên trong lục đạo mà duyên trong mười pháp giới cũng bỏ sạch. Người ấy trong một đời nhất định chứng nhất chân pháp giới.

Muốn vậy thì phải làm như thế nào?

Thật thà niệm Phật! Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng thuộc trong mười pháp giới, người vãng sanh đã siêu thoát mười pháp giới.

Điều thứ tám là: 

Chánh Kinh: Ư mạng chung thời, tâm đắc hoan hỷ. Lúc lâm chung, tâm được hoan hỷ.

Người bình thường lúc lâm chung rất thống khổ, rất ưu sầu, thật chẳng biết phải làm sao. Nhưng người tu đạo biết lúc mạng chung sẽ đi về đâu nên họ rất hoan hỷ, rất sung sướng, đúng là lúc thoát ly biển khổ. Người ấy muốn sang sống nơi thanh tịnh tối cực, nơi thù thắng tối cực vậy.

Điều thứ chín là: 

Chánh Kinh: Hiển dương chánh pháp, tồi phục dị luận. Hiển dương chánh pháp, đập tan dị luận. Năng lực thuyết pháp của người ấy phảng phất giống với Chư Phật, Bồ Tát.

Điều thứ mười là: 

Chánh Kinh: Nhất thiết hào quý, oai đức, tôn nghiêm, do tự bất năng sở hữu khuy vọng, hà huống hạ liệt thiểu phước chúng sanh.

Hết thảy kẻ giàu sang, oai đức, tôn nghiêm còn chẳng thể đánh giá người ấy chút phần, huống là những chúng sanh hèn kém, ít phước. Câu này tán thán những thành tựu của người ấy. Đầu tiên, Kinh nói đến những kẻ phú quý, hạ liệt thiểu phước là kẻ bần tiện. Người phú quý hay bần tiện trong thế gian chẳng thể suy lường được người ấy cao thâm đến đâu. Đấy là nói đến cảnh giới của người ấy.

Điều thứ mười một là: 

Chánh Kinh: Chư căn thành tựu. Các căn thành tựu.

Điều thứ mười hai là: 

Chánh Kinh: Vô năng ánh tế. Không chi che lấp được. Biểu hiện năng lực trí huệ của người ấy rất rạng rỡ, thấu hiểu mọi sự không thừa sót, không ai có thể chướng ngại người ấy.

Điều thứ mười ba là: 

Chánh Kinh: Cụ túc nhiếp thọ thù thắng ý lạc. Nhiếp thọ đầy đủ niềm vui xứng ý thù thắng.

Câu này nói đến sự hưởng thụ cuộc sống của người ấy: Đạt được hạnh phúc khoái lạc viên mãn. Niềm hạnh phúc khoái lạc đó từ trong tâm tỏa lộ ra bên ngoài, chứ chẳng phải từ bên ngoài mà có. Đấy gọi là thù thắng ý lạc.

Hạnh phúc xứng ý trong cuộc sống của phàm phu là do từ bên ngoài khơi gợi, phát khởi: Hưởng thụ ngũ dục, lục trần, cho đó là khoái lạc. Chư Phật, Bồ Tát chẳng vậy, khoái lạc phát xuất từ nội tâm. Khoái lạc phát khởi từ vô lượng trí huệ, vô lượng tài nghệ, vô lượng đức năng trong tâm tánh. Đấy mới là khoái lạc chân thật.

Điều thứ mười bốn, mười lăm là: 

Chánh Kinh: Đắc Xa ma tha, Tỳ bà xá na. Chứng đắc chỉ, quán. Hai câu này là tiếng Phạn. Xa ma tha Śamatha là chỉ, là định. Tỳ bà xá na Vipaśyanā là quán. Chúng tôi nói một cách thông tục cho quý vị dễ hiểu.

Xa ma tha là từ buông bỏ hết thảy mà đắc định. Quý vị buông xuống được vạn duyên thì sẽ đắc Định, đó gọi là Xa ma tha. Tỳ bà xá na là từ khán phá thấy thấu suốt bản chất các pháp mà đắc định. Đều là đắc định, nhưng từ buông xuống mà đắc định thì gọi là Xa ma tha. Từ khán phá mà đắc định thì gọi là Tỳ bà xá na.

Điều thứ mười sáu là: 

Chánh Kinh: Nan hành chi hạnh giai đắc viên mãn. Các hạnh khó hành đều được viên mãn.

Thế pháp, pháp thế gian có pháp khó hành, xuất thế pháp cũng có pháp khó hành, nhưng quý vị đều thực hiện rất thuận lợi, rất viên mãn.

Vì sao thế?

Là vì quý vị có trí huệ, có cách thức thiện xảo.

Điều thứ mười bảy, mười tám là: 

Chánh Kinh: Phát khởi tinh tấn, phổ hộ chánh pháp. Phát khởi tinh tấn, hộ trì hết thảy chánh pháp.

Tinh tấn khó đạt phi thường. Tấn là tiến bộ, vĩnh viễn không lùi sụt. Tiến bộ cần phải tinh, chuyên ròng, tinh thuần chuyên nhất, chẳng xen tạp.

Đó gọi là tinh tấn. Phổ hộ chánh pháp cũng lại hết sức trọng yếu, bất cứ hết thảy pháp nào do Chư Phật, Bồ Tát nói ra, ta đều dùng tấm lòng chân thành để ủng hộ, trọn chẳng vì mình tu Tịnh Độ bèn chỉ hộ trì pháp Tịnh Độ, kẻ khác tham thiền mình bèn chê bai thì là lầm mất rồi.

Như thế là quý vị chẳng hộ trì người ấy rồi. Đối với hết thảy các pháp do Đức Phật Như Lai đã nói đều phải dùng tâm bình đẳng, tâm chân thành để hộ trì, như vậy mới là đúng.

Giống như trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử tham học năm mươi ba lần, quý vị xem: Năm mươi ba vị thiện tri thức, mỗi người chỉ tu có một pháp môn, nhưng đối với tất cả các pháp môn bọn họ đều thán thán, quyết định chẳng hề phỉ báng. Đấy là phổ hộ chánh pháp, chúng ta phải học theo.

Điều thứ mười chín là:

Chánh Kinh: Tốc tật năng siêu bất thoái chuyển địa. Có thể nhanh chóng vượt lên địa vị bất thoái chuyển.

Tốc tật là nhanh chóng. Quý vị có thể nhanh chóng vượt lên chứng đắc địa vị bất thoái chuyển. Câu này chuyên chỉ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu chẳng cầu sanh Tịnh Độ mà mong chứng đắc địa vị bất thoái chuyển sẽ cực khó.

Cực kỳ khó! Chỉ có vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mới có thể lập tức đạt được ba thứ bất thoái chuyển.

Điều thứ hai mươi là: 

Chánh Kinh: Nhất thiết hạnh trung, tùy thuận nhi trụ. Tùy thuận trụ trong hết thảy các hạnh.

Đấy là đắc đại tự tại. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, bất luận là thiện đạo hay ác đạo, đều có thể tùy thuận, mà cũng đều có thể tùy duyên, đều có thể hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Do hằng thuận, tùy hỷ thành tựu vô lượng công đức. Đấy là hai mươi điều lợi thứ hai.

Chánh Kinh: Di Lặc! Thị vi Bồ Tát đương đắc thành tựu nhị thập chủng lợi. Bất trước danh văn, lợi dưỡng, quả báo, hành nhiêu ích sự nhi vi thượng thủ, thường vị chúng sanh, dĩ vô hy vọng tâm, thanh tịnh thuyết pháp.

Này Di Lặc! Đấy là hai mươi điều lợi mà Bồ Tát sẽ được thành tựu, chẳng chấp vào danh văn, lợi dưỡng, quả báo, lấy việc nhiêu ích làm đầu, thường vì chúng sanh, dùng tâm chẳng mong cầu để thanh tịnh thuyết pháp.

Câu trùng lặp như thế này rất nhiều, câu này rất trọng yếu. Hy vọng chúng ta nghe nhiều lần sẽ nhớ kỹ càng, trong sanh hoạt thường ngày thường phải nương theo đấy mà tu hành.

Những lỗi xấu ác trong đời mạt pháp.

Tham cầu lợi dưỡng.

Trong đoạn Kinh sau đây, Đức Phật giảng rõ những lỗi lầm và các thứ ác hạnh trong thế gian hiện thời. Chúng ta đọc xong phải tỉnh ngộ sâu xa, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải lưu tâm đề phòng vi phạm.

Xin hãy xem Kinh Văn: 

Chánh Kinh: Phật cáo Di Lặc: Nhữ quán vị lai hậu ngũ bách tuế.

Phật bảo Di Lặc: Ông xem trong đời tương lai, năm trăm năm sau. Câu này chỉ thời đại hiện tại của chúng ta.

Chánh Kinh: Hữu Chư Bồ Tát thậm vi vô trí. Có những Bồ Tát rất là vô trí. Bồ Tát ở đây đều là sơ phát tâm Bồ Tát. Chúng ta ngày nay gặp được Phật Pháp, ai nấy đã thọ Tam Quy, Ngũ Giới, Bồ Tát Giới, nên đều là những Bồ Tát được nói đến trong đoạn Kinh này.

Là Bồ Tát gì vậy?

Bồ Tát ngu si, chẳng có trí huệ chi cả!

Chánh Kinh: Hành pháp thí thời. Lúc hành pháp thí. Trong các loại bố thí, đặc biệt nhắc đến pháp bố thí. Pháp bố thí bậc nhất là giảng Kinh, thuyết pháp. Bất luận tại gia Bồ Tát hay xuất gia Bồ Tát đều có thể làm được. Đây là một hiện tượng hết sức rõ rệt tại Đài Loan, người giảng Kinh thuyết pháp ở Đài Loan rất nhiều.

Chánh Kinh: Nhược hữu lợi dưỡng, sanh hoan hỷ tâm. Nếu có lợi dưỡng, sanh tâm hoan hỷ.

Giảng Kinh thuyết pháp mà được người ta cúng dường rất nhiều, được người ta cung kính, khen ngợi rất nhiều, bèn rất khoái chí, rất hoan hỷ vậy.

Chánh Kinh: Nhược vô lợi dưỡng, bất sanh hoan hỷ. Nếu không có lợi dưỡng, chẳng sanh hoan hỷ.

Nếu không ai cung kính, cúng dường thì ý nguyện giảng Kinh bèn suy giảm, thậm chí chẳng còn có ý nguyện giảng Kinh nữa.

Chánh Kinh: Bỉ Chư Bồ Tát vị nhân thuyết pháp, tác như thị tâm. Các Bồ Tát đó thuyết pháp cho người ta, sanh tâm như thế này. Đây là khởi tâm động niệm.

Khởi tâm gì?

Động niệm gì?

Chánh Kinh: Vân hà đương linh thân hữu, đàn việt quy thuộc ư ngã?

Phải làm thế nào khiến cho thân hữu, đàn việt phải quy thuộc ta?

Nói theo cách bây giờ là lôi kéo tín đồ. Nghĩ đủ mọi phương cách, dùng mọi phương tiện hay nói theo cách bây giờ là dùng mọi thủ đoạn để lôi kéo tín đồ, chẳng để cho họ đi đâu khác, cúng dường ai khác.

Quý vị có muốn cúng dường thì chỉ nên cúng dường tôi, chẳng được cúng dường người khác. Quý vị muốn đến Đạo tràng, chỉ nên đến Đạo tràng của tôi, chẳng được đến Đạo tràng bên cạnh. Mang lòng như thế, khởi lên ý niệm như thế.

Chánh Kinh: Phục cánh niệm ngôn: Vân hà đương linh tại gia, xuất gia Chư Bồ Tát đẳng, nhi ư ngã sở, sanh tịnh tín tâm, cung kính, cúng dường, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thang dược?

Lại còn nghĩ rằng: Phải làm thế nào để các hàng Bồ Tát tại gia, xuất gia, đối với ta sanh lòng tin trong sạch, cung kính, cúng dường quần áo, thức ăn, đồ nằm, thuốc men?

Hiện nay cái gì cũng quy thành tiền cả.

Hoằng Pháp lợi sanh mà khởi lên ý niệm ấy thì làm sao tương ứng cho được?

Đây là hiện trạng của xã hội hiện tại.

Chánh Kinh: Như thị Bồ Tát, dĩ tài lợi cố, vị nhân thuyết pháp. Hàng Bồ Tát như thế vì tài lợi mà thuyết pháp cho người khác. Mục đích thuyết pháp là vì tài, vì lợi.

Chánh Kinh: Nhược vô lợi dưỡng, tâm sanh bì yếm. Nếu không có lợi dưỡng, sanh tâm mệt chán. Không có lợi dưỡng họ sẽ chán chường, không chịu làm nữa.

Chánh Kinh: Di Lặc! Thí như hữu nhân chí nhạo thanh tịnh, hoặc vị tử xà, tử cẩu, tử nhân đẳng thi, nùng huyết lạn hoại, hệ trước kỳ cảnh, thị nhân ưu não, thâm sanh yếm hoạn. Dĩ vi nghịch cố, mê muộn bất an.

Này Di Lặc! Ví như có người tánh ưa thanh tịnh, nếu bị xác rắn chết, chó chết, người chết v.v... máu mủ rữa nát, buộc chặt nơi cổ, người ấy sẽ sầu não, sanh chán sợ sâu xa. Do vì trái ý, họ sẽ buồn bực chẳng yên.

Ở đây Phật nêu lên một thí dụ để giảng: Ví như có một người, tánh ưa thích thanh tịnh, chẳng chút gì ô nhiễm, chợt gặp phải tình cảnh như sau: Rắn chết, chó chết, người chết.

Những thứ ấy để ví với gì?

Để ví với danh văn, lợi dưỡng, quả báo đã nói ở phần trên. Nếu những thứ ấy buộc ràng vào thân, sẽ giống như bị đem xác chết đã tươm máu mủ, rữa nát buộc chặt vào cổ, chẳng khác chút nào.

Người tâm chí ưa thích thanh tịnh sẽ coi đó là khổ, còn ai lấy đó làm vui?

Bồ Tát ngu si không trí huệ coi đó là vui thì có phải là rồ dại hay không rồ dại đây?

Chúng ta lại xem tiếp đoạn Kinh Văn tiếp theo: 

Chánh Kinh: Di Lặc! Đương tri ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, thuyết pháp chi nhân diệc phục như thị. Ư chư nhất thiết vô lợi dưỡng xứ, bất thuận kỳ tâm, vô hữu tư vị, tiện sanh yếm quyện, khí xả nhi khứ.

Này Di Lặc! Ông nên biết rằng người thuyết pháp vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, cũng giống như thế. Đối với hết thảy những chỗ không có lợi dưỡng, họ chẳng vui lòng, với chỗ không có mùi vị, bèn sanh mệt chán, bèn buông bỏ đi.

Những vị Bồ Tát ấy, chúng ta vừa thấy liền hiểu là chí ý họ chẳng ưa thích thanh tịnh. Họ bị ngũ dục, lục trần, danh văn, lợi dưỡng buộc ràng. Vì thế, nếu chẳng được danh lợi, họ sẽ chẳng làm. Chỗ nào danh lợi nhiều, họ liền hiện vẻ dũng mãnh, tinh tấn, sẽ làm rất nhanh nhẹn, siêng năng. Toàn là vì danh lợi. Cần phải hiểu là danh văn, lợi dưỡng quyết định có quả báo là tam đồ.

Bởi thế họ đang tu điều gì vậy?

Tu tam ác đạo đấy. Họ đâu có tu đạo bồ đề.

Chánh Kinh: Bỉ chư Pháp Sư tác như thị niệm: Ngã ư thử trung, thuyết pháp vô ích.

Hà dĩ cố?

Thị chư nhân đẳng, ư ngã sở tu, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược, bất sanh ưu niệm, hà duyên ư thử, đồ tự bì lao?

Các Pháp Sư đó nghĩ như thế này: Ta ở nơi đây, thuyết pháp vô ích.

Vì sao vậy?

Những người này đây, đối với y phục, đồ ăn, đồ nằm, thuốc men ta cần, họ chẳng lo nghĩ đến, cớ gì mình phải uổng công nhọc nhằn ở nơi đây?

Khởi tâm ấy, động niệm ấy, hoàn toàn trái nghịch lời đức Như Lai răn dạy. Phật dạy ta dùng tâm không hy vọng để thanh tịnh thuyết pháp, mà họ thuyết pháp nhằm thỏa mãn những điều mong cầu, nhưng điều họ mong cầu vĩnh viễn không bao giờ dứt.

Điều này rất phiền toái, chẳng thể giảng tường tận cho quý vị đồng tu bộ Kinh này, chỉ có thể điểm tới là thôi. Mọi người về nhà hãy dốc lòng thấu hiểu. Nếu giảng tỉ mỉ sẽ đắc tội với rất nhiều người, cho nên tôi mới nói là rất phiền toái.

Ba mươi năm trước tôi giảng Thiền Lâm Bảo Huấn, có người gọi điện thoại, gởi thơ sửa lưng tôi: Sư nói những điều này nọ đắc tội với rất nhiều người. Bộ Kinh này nếu giảng kỹ ắt sẽ lòi xương, bởi thế tôi hy vọng quý vị sẽ dốc tâm thấu hiểu. 

Điều quan trọng nhất là ta chẳng thấy lỗi người khác, mà phải phản tỉnh coi chính mình có phạm phải những căn bệnh ấy hay không. Có như vậy ta mới đạt được lợi ích chân thật. Người khác làm gì là chuyện của họ, chẳng liên can gì đến ta. Họ thành Phật chẳng liên can gì đến ta, họ đọa địa ngục cũng chẳng liên can gì đến ta.

Việc gì ta phải bận tâm đến họ. Khẩn yếu nhất là phải quan tâm giữ mình cho tốt. Giữ mình chẳng dễ đâu. Gặp được bộ Kinh này là nhân duyên thù thắng khôn sánh, y chiếu lời dạy răn chân thật của Đức Phật, tích cực phản tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi, đổi mới, hy vọng được giải thoát ngay trong một đời này, được vãng sanh Phật Quốc, nhanh chóng được viên mãn bồ đề mới là mục tiêu chân chánh của chúng ta.

Chúng ta đọc đoạn Kinh này một lượt nữa: Các Pháp Sư đó nghĩ như thế này: Ta ở nơi đây, thuyết pháp vô ích.

Vì sao vậy?

Những người này đây, đối với y phục, đồ ăn, đồ nằm, thuốc men ta cần, chẳng lo nghĩ đến, cớ gì mình phải uổng công nhọc nhằn nơi đây?

Chánh Kinh: Di Lặc! Thị chư Pháp Sư tự cầu cúng dường, cấp thị, tôn trọng, nhiếp thọ đồng trụ, cập ư cận trụ.

Này Di Lặc! Các Pháp Sư ấy do tự cầu được cúng dường, cung cấp, hầu hạ, tôn trọng nên bèn nhiếp thọ kẻ đồng trụ và kẻ cận trụ. Câu này cần lại phải nói lướt qua. Đồng trụ là những người ở trong cùng một Đạo tràng với chúng ta, đa phần chỉ người xuất gia.

Cận trụ là tín đồ thường vãng lai Đạo tràng của mình. Đồng trụ và cận trụ là hết thảy đại chúng và hết thảy tín đồ trong Đạo tràng của các Pháp Sư ấy. Nói chung là Pháp Sư nghĩ cách lung lạc, nghĩ cách khống chế để mọi người phải nghe theo lệnh mình. Đấy chính là ý nghĩa của câu này.

Chánh Kinh: Bất vị ư Pháp, cập lợi ích sự, nhi nhiếp thọ chi. Chẳng vì pháp và sự lợi ích mà nhiếp thọ.

Họ nhiếp thọ những chúng sanh ấy chẳng phải là để chân chánh dạy người ta học Phật Pháp, dạy người ta giác ngộ, dạy người ta liễu sanh tử, xuất Tam Giới. Họ chẳng nói đến những sự ấy.

Chánh Kinh: Thị chư Pháp Sư, tự cầu ẩm thực, y phục, ngọa cụ, trá hiện dị tướng. Các Pháp Sư ấy vì mong cầu thức ăn, quần áo, đồ nằm nên dối hiện tướng lạ. Chữ trá hàm nghĩa lừa dối, gạt gẫm.

Đối với câu này, trong nhà Phật cũng có một câu ngạn ngữ: Hòa Thượng bất tác quái, cư sĩ bất lai bái. Thầy Chùa chẳng giở trò, cư sĩ chẳng đến lễ.

Trá hiện dị tướng tức là bày vẽ những trò lạ, để kêu gọi tín đồ ngày ngày đến lễ bái. Những chuyện thuộc phạm vi này cũng rất nhiều. Hiện tại có rất nhiều người đặc biệt cường điệu chuyện thần thông cảm ứng. Thần thông cảm ứng chính là dị tướng. Những chuyện thần thông cảm ứng như vậy có khi cũng có, nhưng nhất định chẳng nên tuyên truyền.

Trong Đạo tràng chúng ta đã từng thấy chuyện này: Lúc mọi người đến chụp ảnh, trong ảnh có quang minh, có dị tướng, chúng tôi đem hủy hết những ảnh ấy, vì đó là điều chẳng hay. Nếu mọi người tham chấp vào việc ấy sẽ rất dễ bị ma dựa đó nghe.

Vì thế, nếu chẳng quan tâm đến: Họ là Phật cũng hay, là ma cũng chẳng đếm xỉa tới, thì Đạo tràng ấy bình yên vô sự, có thể duy trì, bảo vệ chánh pháp.

Chánh Kinh: Nhập ư vương thành, quốc ấp, tụ lạc. Họ vào trong vương thành, quốc ấp, tụ lạc.

Vương thành gọi theo cách bây giờ là thủ đô, chỗ đặt văn phòng chánh phủ trung ương. Quốc ấp là đô thị lớn. Tụ lạc là thôn trấn, xóm làng, hương trấn.

Chánh Kinh: Nhi thực bất vị lợi ích, thành thục ư chư chúng sanh, nhi hành pháp thí.

Sở dĩ giả hà?

Nhưng thật sự chẳng vì nhằm lợi ích, thành thục cho chúng sanh mà hành pháp thí.

Vì sao vậy?

Bọn họ hoằng pháp lợi sanh tại các địa phương ấy, nhưng thật ra chỉ vì mục đích tư lợi, toàn là vì danh văn, lợi dưỡng, chứ chẳng thật sự nhằm làm lợi, thành thục chúng sanh.

Lợi ích khác với thành thục một chút. Lợi ích là dạy dỗ cho họ được tiếp xúc với chánh pháp, đem chánh pháp của Đức Phật giới thiệu cho họ. Thành thục là giúp cho họ ngay trong một đời này được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, thật sự thoát ly luân hồi.

Bởi lẽ, chẳng vãng sanh thì chẳng thể ly khai lục đạo luân hồi. Quý vị được lợi ích thì chưa thể coi là thành thục được.

Thành thục là lợi ích viên mãn.

Kiểu hành pháp thí như thế, nói theo cách bây giờ, hoằng pháp lợi sanh là vì cái gì?

Ở đây, Phật nêu câu hỏi để chúng ta tự phản tỉnh.

Mười lăm thứ tà pháp Đức Phật chẳng hề nói đến.

Dưới đây, Đức Phật nói đến mười lăm điều mà Đức Phật chẳng bao giờ đề cập. Thật ra, trong đoạn Kinh này, Đức Phật chỉ nêu lên một số điều làm thí dụ, chứ chẳng phải chỉ có mười lăm điều mà thôi.

Ngài hy vọng từ những điều này, chúng ta sẽ tự có thể lãnh hội, tự hiểu rõ đâu là chánh pháp?

Đâu là tà pháp?

Chúng ta hãy đọc Kinh Văn:

Chánh Kinh: Di Lặc! Ngã bất thuyết ngôn: Di Lặc! Ta chẳng hề nói Ngã là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng.

Đức Phật chẳng hề nói những điều như sau: Chánh Kinh: Hữu hy cầu giả vi pháp thí thanh tịnh.

Hà dĩ cố?

Nhược tâm hữu hy cầu, tắc pháp vô bình đẳng. Có lòng mong cầu là thực hành pháp thí thanh tịnh.

Vì sao vậy?

Nếu tâm có mong cầu thì pháp sẽ không bình đẳng. Đây là điều thứ nhất. Bởi lẽ Phật Pháp rất dễ bị người khác mạo danh lợi dụng, bắt chước giả mạo. Yêu ma, quỷ quái rất thông minh, những danh từ hay ho trong Phật Pháp chúng đều lấy sử dụng hết, những chúng sanh nào mê hoặc điên đảo đều bị xí gạt cả.

Mạo danh chiêu bài Phật Pháp rất hay, nghe rất kêu, chứ thật sự bên trong chẳng phải là như vậy. Vì thế, thanh tịnh thí pháp thì pháp thí sẽ thanh tịnh.

Nếu như quý vị đối với chúng sanh mà có tâm mong cầu, thì pháp thí ấy chẳng phải là thật, chỉ là chiêu bài giả mạo, là giả dối, Đức Phật chẳng thuyết pháp giống như thế. Đối với hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian, hết thảy người, hết thảy sự, Chư Phật, Bồ Tát tuyệt đối chẳng có mảy may ý niệm cầu mong gì. Phiền lắm nghe.

Lần này, tôi trở về đây, có những đồng tu thưa với tôi là muốn in Kinh, tính đến hỏi tôi in tác phẩm này có được chăng, in tác phẩm kia có được chăng?

Tôi chẳng quan tâm đến những điều đó. Quý vị thích in thì cứ tự mình in. Tôi chẳng hề giữ bản quyền thứ gì.

Quý vị thích làm sao thì cứ làm vậy, chỉ cần quý vị suy nghĩ xem mình như thế này thì sẽ đúng: Nếu việc ấy có lợi cho xã hội, cho chúng sanh thì quý vị cứ dốc sức mà làm, chẳng cần phải hỏi ý tôi. Tôi ngại phiền rộn lắm. Tôi thường sợ phiền, nhưng Chư Phật, Bồ Tát chẳng thấy phiền. Có phiền hay không các Ngài chẳng bận tâm đến những chuyện ấy. Bởi vậy, tâm địa thanh tịnh là điều hết sức trọng yếu.

Điều thứ hai là: 

Chánh Kinh: Ngã bất thuyết ngôn: tham ô tâm giả năng thành chúng sanh.

Ta chẳng nói rằng: Kẻ tâm tham ô có thể thành thục chúng sanh. Tâm tham ô là trong tâm có những phiền não như tham, sân, si, mạn đấy. Câu này ý nói chưa đoạn phiền não.

Nếu chính mình chưa đoạn phiền não thì quý vị thành thục người khác sao được?

Làm sao giúp đỡ người khác được?

Chánh Kinh: Hà dĩ cố?

Tự vị thành thục, năng thành thục tha, vô hữu Thị xứ.

Vì sao cố?

Chính mình chưa thành thục mà lại có thể thành thục người khác, quyết không có lẽ đó. Vô hữu Thị xứ nghĩa là chẳng có đạo lý ấy.

Chánh Kinh: Di Lặc! Ngã bất thuyết ngôn: Tôn trọng, cúng dường, an lạc kỳ thân, tham trước nhiếp thọ bất tịnh vật giả, vi lợi ích sự.

Này Di Lặc!

Ta chẳng hề nói: Tôn trọng, cúng dường, yên vui cái thân, tham đắm thâu góp các vật bất tịnh là chuyện lợi ích. Rất nhiều đồng tu xuất gia, tại gia nghĩ đến việc tu tập tích lũy công đức. Trong Kinh Phật nói đến việc tích tập công đức, mọi người xem đến những đoạn Kinh ấy rất hoan hỷ, chúng ta phải tích cực thực hiện.

Nên làm như thế nào?

Nếu có những sự như sau, khởi lên những ý niệm như sau thì đều sai rồi: Quý vị có ý niệm tham muốn được tôn trọng, cúng dường hay chăng?

Quý vị có tham muốn hưởng thụ hay chăng?

Quý vị có ham muốn thâu góp những vật bất tịnh hay chăng?

Thế nào gọi là vật bất tịnh?

Quý vị phải tự hiểu rõ, phải hiểu minh bạch điều này. Phạm vi bao quát của từ ngữ này rất rộng.

Chúng tôi xin nêu một thí dụ: Ví như lúc bố thí cúng dường, nếu dùng thủ đoạn để buộc hết thảy đại chúng dù chẳng cam tâm tình nguyện cũng phải cúng dường, bức bách họ cúng dường, thì gọi là cúng dường chẳng thanh tịnh.

Bức bách như thế nào?

Tìm những người thân cận với mình, bảo trước với họ: Quý vị phải ghi tiền cúng dường nhiều hơn một chút. Những người đằng sau thấy vậy không vui lòng, nhưng gặp lúc chẳng thể không cúng dường, không cúng dường thì mất mặt lắm, chứ thật ra trong lòng chẳng cam tâm, chẳng tình nguyện, nhưng chẳng thể không làm, đó gọi là vật bất tịnh.

Tôi chỉ nêu một thí dụ đấy nhé. Những sự việc như vậy rất nhiều. Vì thế người học Phật Học rất khổ sở, áp lực rất nặng đó nghe. Phật, Bồ Tát dạy chúng ta học Phật đại tự tại, ngày ngày học Phật hoan hỷ, chúng ta thấy phần đông người học Phật mặt nhăn, mày nhíu, nguyên nhân bên trong rất phức tạp.

Tiếp theo đây, Phật giảng: 

Chánh Kinh: Hà dĩ cố?

Vị cầu tự thân an ổn, phong lạc, nhiếp thọ chúng hội, bất năng linh kỳ an trụ chánh tín.

Vì sao vậy?

Vì muốn cho thân mình được an ổn, dư dật, yên vui mà nhiếp thọ chúng hội, chẳng thể làm cho họ an trụ trong chánh tín. Chẳng thể khiến cho hết thảy chúng sanh an trụ trong chánh tín, tín nguyện của họ đều chẳng thật.

Trong đoạn Kinh Văn tiếp theo đây, Đức Phật cũng nói đến điều Ngài sẽ chẳng đề cập. Dụng ý của Ngài là đề phòng trong thời kỳ mạt pháp, có hạng Bồ Tát ngu si.

Nhưng thật sự ra, đoạn Kinh Văn sau đây cũng để nói: Trong thời đại này, có con cháu của Ma Vương đi xuất gia, cũng mặc Ca Sa để phá hoại chánh pháp, giả mạo danh nghĩa Phật Pháp chứ thật ra phá hoại Phật Pháp. Trong số đó, có kẻ cố ý phá hoại, có kẻ vô ý.

Vô ý phá hoại Phật Pháp là sao?

Bị ma khống chế, tự mình chẳng hiểu làm như thế chính là phá hoại Phật Pháp, cứ tưởng là đang tích tập công đức. Đây chính là điều chúng ta phải suy xét, phải giác ngộ.

Chúng ta hãy xem đoạn thứ bốn: 

Chánh Kinh: Di Lặc! Ngã bất thuyết ngôn: Kiểu trá chi nhân trụ A Lan Nhã.

Này Di Lặc! Ta chẳng nói là người giả dối, man trá trụ nơi tịch tĩnh. Câu này nói theo cách bây giờ là bế quan, ở lều tranh.

Bế quan, ở lều tranh nhằm mục đích gì?

Dùng cách thức này để lừa dối tín đồ. Mọi người nếu gặp cá nhân nào đã từng bế quan như thế, ắt nhất định nghĩ kẻ ấy khá lắm. Bởi lẽ, mục đích của kẻ ấy là tom góp danh văn, lợi dưỡng, chẳng thật sự tu hành, cũng chẳng vì hoằng pháp lợi sanh, mà là hạng giả dối, man trá.

Đích xác là có chuyện như thế. Nếu quý vị chú ý quan sát, sẽ nhận biết kẻ như vậy chẳng khó khăn gì. Dù có phát giác thì cũng chẳng cần phải nói ra, chỉ cốt sao mình chẳng bị lừa là được. Người khác mắc lừa là do nhân duyên. Trong phần trên, Đức Thế Tôn đã dạy chúng ta phải tu hành trong thời đại này như thế nào mới chẳng sanh phiền não, mới được an ổn giải thoát.

Phật dạy chúng ta bốn phương pháp, lại nói thêm bốn phương pháp nữa, tám phương pháp ấy các vị còn nhớ hay chăng?

Phải nhớ cho chắc nghe. Nếu chẳng nhớ thì quý vị đã nghe uổng công rồi, mà cũng đã uổng công đọc Kinh rồi. Điều này hết sức quan trọng. Câu thứ nhất Đức Phật dạy chúng ta là chẳng tìm lỗi người khác. Người khác có lỗi hay không, trong tâm chúng ta biết rõ, nhưng ta chẳng gây phiền phức cho người ta, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ.

Chẳng nêu tội người: Họ có phạm giới, tạo tác tội nghiệp, ta cũng chẳng chỉ trích. Mỗi người tự có nhân quả, tự có báo ứng mà.

Cớ chi chúng ta phải xen vào?

Trong tám điều, hai điều này được xếp lên đầu là vì chúng hết sức quan trọng, chúng ta phải hiểu rõ.

Chánh Kinh: Bạc phước đức giả, nhi vi thiểu dục. Kẻ kém phước đức mà đáng coi là thiểu dục.

Kẻ đó làm ra vẻ thiểu dục, làm ra vẻ tri túc, là vì sao?

Là vì kẻ ấy chẳng có phước đức.

Không có phước đức sao lại nói là thiểu dục cho được?

Lúc không có phước đức bèn làm ra vẻ thiểu dục. Thiểu dục là một hạnh pháp rất cao siêu trong Phật Pháp đã bị kẻ đó giả mạo.

Chánh Kinh: Tham thắng vị giả, danh dị mãn túc. Kẻ tham mùi vị thù thắng mà đáng gọi là dễ thỏa mãn. Thắng là thù thắng. Vị là ngũ dục, lục trần. Tham muốn hưởng thụ ngũ dục, lục trần, bèn khoác lên danh xưng đẹp đẽ là dị mãn túc. Dị mãn túc nghĩa là tri túc.

Chánh Kinh: Đa cầu mỹ thiện, dĩ vi khất thực. Chẳng thể coi kẻ ham thích có đồ ăn ngon là đi khất thực. Trong thời Đức Phật tại thế, phương thức sanh hoạt của người xuất gia là thác bát, ôm bát đi khất thực.

Những kẻ khất thực được nhắc đến trong đoạn Kinh này đi đến nơi nào?

Họ chuyên môn đến khất thực nhà phú quý vì tham luyến đồ ăn ngon.

Chẳng đến khất thực nhà bần cùng là vì sao?

Đồ cúng của kẻ nghèo không ngon. Cơm, thức ăn của kẻ nghèo chẳng ngon lành chi cả. Gọi đó là khất thực.

Từ ý này các vị suy ra thì thấy: Hễ tham muốn hưởng thụ danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục thì sẽ chẳng thành người xuất gia.

Chánh Kinh: Di Lặc! Ngã bất thuyết ngôn: Khất cầu chủng chủng thượng diệu y phục, vị như thị đẳng trì phấn tảo y.

Này Di Lặc!

Ta chẳng nói rằng: Xin tìm các thứ y phục tốt đẹp thì cũng giống như mặc y phấn tảo.

Đức Thế Tôn dạy các đệ tử dùng phấn tảo y là nhằm dụng ý dạy người xuất gia phải thời thời khắc khắc thường tự cảnh tỉnh: Thế gian này khổ lắm. Luân hồi càng đáng sợ hơn. Vì thế phải sống đơn giản, mặc áo rất thô. Thời cổ khoa học, kỹ thuật chưa phát triển, một bộ quần áo rất khó có được, chẳng phải rất dễ có như thời hiện tại.

Y phục của người xuất gia toàn là nhặt nhạnh từ quần áo cũ của người tại gia đã vứt bỏ đi, chẳng ai muốn nữa. Nhặt lấy những thứ đó, xem phần nào còn có thể dùng được thì cắt ra, sau đó chằm từng miếng một lại thành bức. Đó chính là Ca Sa.

Ca Sa là do may chằm lại như thế, toàn là do vải cũ chằm lại, màu sắc, chất liệu không đồng nhất, Đức Phật dạy nhuộm thành màu tro hay màu cà phê, gọi là phấn tảo y. Y phục này người thế gian chẳng mặc được, mặc y phục này sẽ thời thời khắc khắc tự răn nhắc, tuyệt chẳng tham muốn hưởng thụ.

Ngày nay chúng ta nghĩ đến lời giáo huấn của đức Thích Ca Mâu Ni, khi chúng ta may y Ca Sa, đem cả nguyên cuốn vải, cắt vụn ra, rồi may chằm lại, nhưng đấy chẳng phải là ý Phật.

Vì thế, phải thường nghĩ đến cuộc sống của Tăng Đoàn khi Đức Thế Tôn còn tại thế, Đức Thế Tôn khổ tâm răn dạy, không gì chẳng nhằm khiến cho chúng ta bất cứ nơi đâu, bất cứ thời khắc nào tâm luôn cảnh tỉnh, trọn chẳng bị mê hoặc bởi ngũ dục, lục trần trong thế gian. Do vậy, Đức Phật tuyệt đối chẳng nói là xin tìm các thứ y phục quý tốt để mặc trên thân mà vẫn giống hệt như mặc y phấn tảo.

Hiện tại, người xuất gia cũng khá chịu khó nghiên cứu y phục, chất liệu toàn tuyển loại thượng hạng. Phương thức sanh hoạt như vậy rất dễ tăng trưởng tâm tham, khiến cho quý vị lưu luyến thế gian này, lìa bỏ chẳng nổi.

Nếu là kẻ niệm Phật cầu vãng sanh, đến lúc A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, quý vị lại nhớ mình còn có nhiều thứ tốt đẹp quá, bỏ đi chẳng đành thì phiền quá. Những thứ đó đâu có mang theo được. Bởi vậy lúc bình thường phải buông bỏ.

Điều thứ sáu là:

Chánh Kinh: Di Lặc! Ngã bất thuyết ngôn: Tại gia, xuất gia, vô thức tri giả, vi ly hội náo.

Này Di Lặc! Ta chẳng nói rằng: Kẻ tại gia, xuất gia không ai biết đến bèn là xa lìa chốn ồn náo. Bồ Tát tại gia hay xuất gia, nếu chưa nổi tiếng lắm, không ai biết đến mình, quý vị bèn làm ra vẻ ta là người xa lìa chốn ồn náo. Quý vị xem, cái tiếng tốt ấy hay bị người ta mạo nhận lắm.

Chánh Kinh: Di Lặc! Ngã bất thuyết ngôn: Siểm khúc chi nhân, trị Phật hưng thế.

Này Di Lặc! Ta chẳng nói rằng người dua vạy sẽ gặp Phật xuất hiện trong cõi đời.

Tâm chẳng chánh trực, chẳng thành thật, người như vậy sẽ gặp hay chẳng gặp được Phật xuất thế?

Dù Đức Phật xuất thế, kẻ ấy cũng chẳng gặp.

Vì sao chẳng gặp?

Kẻ ấy có chướng ngại: Siểm khúc là chướng ngại.

Người như thế nào mới gặp được Phật?

Chân thành! Trong cửa nhà Phật chẳng bỏ một ai. Tâm địa quý vị chân thành sẽ cảm ứng đạo giao Chư Phật, Bồ Tát, nên có thể gặp được các Ngài, người tâm dua vạy chẳng thể gặp được. Chẳng phải là Phật không từ bi, chỉ là do chính người ấy có chướng ngại.

Trong xã hội hiện tại, hay có chuyện này: Ở Trung Quốc hay ở ngoại quốc, ta thường nghe nói ông nọ là Bồ Tát chi đó tái lai, là Phật nào đó tái lai. Có nhiều người thân cận kẻ đó thấy mình được vẻ vang, hết sức nở mày nở mặt. Kẻ đó thấy Phật, thấy được Phật sống.

Nếu quý vị chú tâm quan sát kỹ thì sẽ thấy kẻ đó là siểm khúc, làm sao thấy Phật sống cho được?

Thấy Bồ Tát cho được?

Nếu những vị đó nói họ là Phật tái lai, Bồ Tát tái lai, sao nói xong không thị tịch?

Trong lịch sử Trung Quốc đã từng có chuyện như vậy: Các vị hé lộ thân phận xong bèn tịch diệt, đó mới là thật. Nói ra thân phận vẫn sống nhăn, thì rất kỳ quái. Bởi vậy, nếu quý vị hiểu rõ sự lý này rồi thì sẽ chẳng bị mắc lừa.

***