Haèng thuaän chuùng sanh
Tuyø hyû coâng ñöùc

tinhdo.edu.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ LẦN THỨ BỐN - TẬP BẢY - A

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ

LẦN THỨ BỐN

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP BẢY - A
 

Các vị Pháp Sư, các vị đồng tu, xin mời ngồi!

Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.

A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.

A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú tờ thứ một trăm năm mươi ba, chúng ta xem từ hàng thứ năm Giải: Hựu, nhật đạo ẩn, ư sở trước Vô Lượng Thọ Kinh Chân giải chung viết.

Ngũ trược chi thế: Đây đích thực chính là chỉ cái thời đại hiện tại này của chúng ta, trược ác đến cùng tột.

Tạo ác chi thời, Thánh đạo nhất chủng, kim thời nan tu: Đặc biệt là Phật Pháp rất khó tu vào thời này.

Vì sao?

Phật Pháp nói là tâm tánh. Tu học Phật Pháp điều kiện quan trọng nhất chính là dùng chân tâm, bởi vì Phật Pháp là Thế Tôn từ trong tâm chân thành mà lưu xuất ra. Còn tâm chúng sanh là vọng tâm nên tâm của chúng ta không giống với Ngài thì rất khó mà thể hội được.

Chân tâm là thanh tịnh, bình đẳng, giác, không có chút gì nhiễm ô, không có chút nào hoài nghi, không có chút nào dao động, vậy thì chúng ta ngày nay đích xác như người xưa đã nói tâm khí bao chao.

Người vào thời xưa có tâm khí bao chao thế không?

Có! Thế nhưng cái mức độ tâm khí bao chao đó rất là nhỏ, rất ít. Nếu dùng phân trăm để so sánh thì cũng chẳng qua cũng chỉ là 3 5% tâm khí bao chao như vậy.

Vậy hiện tại thì sao?

Hiện tại phải đạt đến 95%, 90 - 95% thì làm sao có thể học được?

Chúng ta từ chỗ nào có thể xem thấy ra?

Từ việc đại thiện tri thức không ở thế gian chúng ta.

Vì sao các Ngài không đến?

Vì chúng ta không chịu học. Còn nếu chúng ta chân thật chịu học, thì Phật, Bồ Tát liền đến ứng thế, chúng sanh có cảm, Phật liền có ứng.

Phật, Bồ Tát tại vì sao đến thế gian này?

Đến khi nào thì các Ngài đến?

Lúc nào chúng sanh muốn học Thánh Giáo thì các Ngài đến. Tuy nhiên, nếu trong tâm chúng ta là muốn học, thế nhưng trình độ của chúng ta không đủ, thì các Ngài cũng không đến, vì điều kiện không đầy đủ.

Người xưa vì sao có thể đầy đủ đầy đủ điều kiện?

Vì người xưa từ nhỏ đã tiếp nhận qua giáo dục nền tảng.

Chúng ta nêu ra thí dụ rất rõ ràng: Mỗi gia đình đều giáo dục thế hệ sau Đệ Tử Quy. Cần phải giáo dục học tập Đệ Tử Quy. Cái giáo dục này không phải chỉ dạy cho trẻ nhỏ đọc, không phải vậy, mà hoàn toàn là dạy người cả nhà, đặc biệt là cha mẹ đều thực tiễn Đệ Tử Quy.

Trẻ nhỏ vừa sanh ra chúng liền xem thấy rồi, chúng liền nghe được, liền tiếp xúc được, cha mẹ cự ly rất gần với chúng, ngôn hạnh của cha mẹ, nhất cử nhất động ở trước mặt trẻ nhỏ, cho dù là trẻ sơ sinh vừa mới sanh ra, chúng mở mắt ra là biết nhìn rồi, lỗ tai nhỏ của chúng sẽ biết nghe, chúng đã bắt đầu học tập.

Cho nên hễ là mặt trái, điều bất thiện, việc không tốt, quyết định không để trẻ nhỏ xem thấy, không thể để chúng nghe được, không thể để chúng tiếp xúc được. Mẫu thân phải trông chừng trẻ nhỏ cho tốt, để trẻ nhỏ nghe được, tiếp xúc được, đều là thiện, đều là tốt.

Tiêu chuẩn của thiện ác, Trung Quốc vào thời xưa là lấy Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức làm tiêu chuẩn. Tương ưng với cái này là thiện, không tương ưng với đây chính là bất thiện. Hay nói cách khác trẻ nhỏ, chúng từ lúc vừa sanh ra liền tiếp xúc với giáo dục luân lý, ngũ thường, tứ duy, bát đức.

Giáo dục đạo đức, đối với trẻ nhỏ cần phải xem bao lâu?

Phải xem ba năm, hay nói cách khác một ngàn ngày. Đây là giáo dục nền tảng nhân sanh. Nhưng đến hiện tại này thì không còn, hoàn toàn không còn nữa.

Với tuổi tác này của tôi, cũng chính là nói khoảng tám mươi năm về trước thì vẫn còn cái giáo dục này. Tôi còn nếm được một chút cạnh rìa của nền giáo dục này, em trai tôi thì không có, chú ấy nhỏ hơn tôi sáu tuổi.

Tôi tiếp xúc cái nền giáo dục này cho đến lúc tôi khoảng tám chín tuổi thì không còn. Khi tôi tám, chín tuổi thì em trai tôi chỉ có hai ba tuổi, chú ấy không nhớ được, cho nên tôi còn tiếp xúc được chút ít giáo dục truyền thống.

Đến năm tôi mười tuổi, chúng tôi từ nông thôn dọn đến thành thị, trong thành thị thì hoàn toàn không có nền giáo dục truyền thống này, chỉ thỉnh thoảng còn nghe được có người nói, nhưng không còn xem thấy người nỗ lực mà làm. Sau khi tôi mười tuổi, ở trong thành phố huân nhiễm cái bất thiện, tiếp nhận cái gọi là giáo dục mới.

Giáo dục mới thì phủ định giáo dục truyền thống, xem giáo dục truyền thống là lỗi thời, là lạc hậu, phải học với các quốc gia Âu Mỹ tiên tiến, thế là khóa trình tiểu học thay đổi.

Khi tôi đi học tiểu học, tiểu học năm thứ hai còn có một khóa trình tu thân, nhưng đến năm thứ ba thì thay đổi tu thân không dùng nữa, đổi thành công dân, đến năm thứ bốn đổi thành xã hội, khóa trình thường hay đổi, mỗi năm đều không như nhau. Đây là chúng tôi đích thân trải qua, càng thay đổi thì càng xa đối với giáo dục văn hoá truyền thống, càng ngày càng xa.

Đến khi tôi học sơ trung, đích thực là đạo đức luân lý truyền thống không còn. Thế nhưng Lão Sư vào lúc đó tốt, Lão Sư còn có thể thân giáo, đó là vào thời kỳ hoạn nạn, tám năm kháng chiến. Chúng tôi lớn lên trong thời đại này, khoảng ngày tháng đó rất gian nan khốn khó, Lão Sư có tâm yêu thương đối với học trò.

Chúng tôi là học sinh lưu vong nên đều không ở cùng chung với gia đình, có người còn thư từ qua lại với gia đình, có người ngay đến tin tức đều không có, cho nên trường học chính là nhà, Lão Sư cũng là kiêm sứ mạng của cha mẹ.

Chúng tôi cảm ân đối với Lão Sư, Lão Sư đích thực đem học trò xem thành con cái, rất là quan tâm, rất là thương yêu, đồng thời cũng làm ra tấm gương tốt cho chúng ta xem. Tuy là không có trong khóa trình, thế nhưng nhất cử nhất động của Lão Sư là tấm gương cho chúng ta.

Trong Chân giải nói: Thánh đạo nhất chủng, kim thời nan tu. Cái khó này không phải một, cái khó quá nhiều rồi, không chỉ một loại.

Học tập khái niệm cơ bản tri thức của Thánh đạo, chúng ta hoàn toàn không tiếp nhận được, vậy thì làm sao có thể thoát ly sáu cõi luân hồi?

Chỗ này phía sau nói: Đặc thử nhất môn, trong tám vạn bốn ngàn, vô lượng pháp môn ra, chỉ có cái môn này là chí viên cực đốn. Cái môn này thật thù thắng, viên đến cực điểm. Viên là viên mãn, viên mãn đến cùng tột, viên dung đến cùng tột. Đốn, đốn là đốn siêu, mau chóng cũng đạt đến đỉnh cao nhất. Một pháp môn đặc thù như vậy, thật khó có thể có được.

Mà pháp môn này còn là: Do kỳ, giản dị trực tiệp, lại không khó. Nếu như chí viên cực đốn thường thì cần phải người thượng thượng căn mới có thể tiếp nhận, vậy thì chúng ta không có phần. Nhưng chỗ tốt nhất của nó chính là đơn giản, dễ dàng, thẳng tắp, mau chóng, ổn định. Đây chính là nói pháp môn Tịnh Độ.

Tắc xuất thế chi chánh thuyết thiên tại tư Kinh: Siêu xuất sáu cõi luân hồi, siêu xuất thập pháp giới, không phải là phụ trợ mà nói, mà là chánh thuyết.

Chính ngay Bộ Kinh này, Bộ Kinh này chính là nhất đại sở thuyết quy thử Kinh: nhất đại này là nói một đời của Thích Ca Mâu Ni Phật, chính là chỉ Thế Tôn nói pháp bốn mươi chín năm. Sở thuyết quy thử Kinh là nói bốn mươi chín năm, nói ra tất cả pháp của Thế Tôn thảy đều quy về Tịnh Độ, cầu sanh Thế Giới Thế Giới Tây Phương Cực Lạc.

Như chúng thủy quy ư đại hải: Chúng thủy là các dòng nước trên Đại Lục, quy ư đại hải là nước trong các dòng toàn bộ đều là chảy ra biển cả. Đem dòng nước thí dụ cho tất cả Kinh, thí dụ cho tất cả pháp môn, vô lượng pháp môn, còn biển cả thí dụ cho Tịnh Độ, sau cùng toàn quy Tịnh Độ.

Do thử ngôn chi, bách vạn A tăng kỳ nhân duyên, dĩ khởi Hoa Nghiêm: Kinh Hoa Nghiêm là do vô lượng nhân duyên mà Thế Tôn vì chúng ta nói ra Bộ Kinh này.

Nhất đại sự nhân duyên dĩ thành Pháp Hoa Chi Giáo: Còn Phật nói Pháp Hoa là vì một đại sự nhân duyên. Một đại sự nhân duyên chính là liễu sanh tử chứng bồ đề. Nếu chỉ riêng liễu sanh tử thì A La Hán đã làm được rồi, còn để thành vô thượng bồ đề thì A La Hán không làm được, mà đó phải là pháp thân Bồ Tát.

Diệc, duy vi thử pháp chi do tự: Câu nói này nói được quá hay.

Bạn xem Kinh Giáo đều là ba phần là: Phần Tựa, phần chánh tông, phần lưu thông, ý nghĩa của câu nói này chính là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, lưỡng Kinh, chỉ thị Bổn Kinh chi đạo dẫn. Cả Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chỉ là dẫn đường cho Kinh này.

Vậy Bổn Kinh Vô Lượng Thọ này thì sao?

Bổn Kinh giả chánh thị nhất Đại Tạng giáo chi chỉ quy: Hay nói cách khác Bổn Kinh này là Phần Chánh Tông của tất cả Kinh, bộ phận chủ yếu nhất chính ngay chỗ này. Vậy thì chúng ta đạt được Bộ Kinh này, cũng bằng đọc được một Đại Tạng giáo, chính là nói Thích Ca Mâu Ni Phật bốn mươi chín năm nói ra Kinh Giáo chúng ta cũng không hề bỏ xót thứ nào.

Không chỉ như vậy, nói trên thực tế là bao gồm mười phương ba đời, vô lượng vô biên Chư Phật Như Lai, nói ra vô lượng Kinh Giáo, đều là lời tựa của pháp này. Cái phân lượng này khá trọng, đây là trong chân giải đã nói.

Phía sau là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói: Cái vị, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa lưỡng Kinh, chỉ thị Bổn Kinh chi đạo dẫn lời nói này tôi tin tưởng, bởi chính tôi là vì học Hoa Nghiêm, học Pháp Hoa, học Lăng Nghiêm mà sanh khởi lòng tin đối với Bộ Kinh này, nếu như trước đây tôi chân thật quy y Tịnh Độ thì tôi đã không phải học những Đại Kinh, Đại Luận này.

Năm xưa ở Đài Loan, Pháp Sư sám vân khuyên tôi về pháp môn Tịnh Độ này, nhưng tôi không tiếp nhận. Tôi học Kinh Giáo với Lão Sư Lý, Lão Sư Lý đặc biệt đem giới thiệu cho tôi, tôi cũng không tiếp nhận.

Hai vị lão nhân này dạy tôi đọc ba bản Chú Giải của Di Đà Kinh là A Di Đà Sớ Sao của Đại Sư Liên Trì, A Di Đà Yếu Giải của Đại Sư Ngẫu Ích, Viên Trung Sớ của Đại Sư U Khê, cả ba bộ Chú Giải lớn của Di Đà Kinh tôi đều đọc rồi, hai vị Lão Sư đều dạy tôi đọc Đại Sư Ấn Quang Văn Sao, chánh tục hai thiên, tôi cũng đọc rồi.

Thái độ của tôi đối với Tịnh Độ Tông có thay đổi, về trước không xem trọng nó, nhưng khi đọc những thứ này rồi thì tôn trọng đối với Tịnh Độ. Thế nhưng tôi vẫn không muốn học nó, hứng thú vẫn là ở Đại Kinh, Đại Luận, đích thực ở Hoa Nghiêm.

Trên Kinh Hoa Nghiêm tôi xem thấy cả Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thành tựu vô thượng bồ đề.

Còn ở Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, đặc biệt là Lăng Nghiêm, hai mươi lăm viên thông chương, tôi xem thấy biểu pháp của Bồ Tát Đại Thế Chí cùng Quán Thế Âm. Tôi tường tận rồi, tôi lúc đó mới sanh khởi lòng tin đối với Tịnh Độ, đối với vãng sanh Cực Lạc là phát ra nguyện tâm.

Nhưng tôi tuy là có tín, có nguyện, nhưng tập khí tâm bệnh của chính mình chưa trừ hết tập khí tâm bệnh gì?

Ưa thích hiếu học đa văn nên tâm không thể chuyên nhất, Đại Kinh Đại Luận vẫn là ưa thích xem, vẫn là ưa thích học tập, không hề một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu, mặc dù tôi hiểu rõ cái đạo lý này, nhưng tôi chưa làm được.

Quay đầu nhìn lại, tôi xem thấy Pháp Sư Hải Hiền, Pháp Sư Hải Khánh, họ đều không biết chữ, đều không có đi học, thế nhưng họ có thể một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu, chính nhờ vào một câu Phật hiệu, sáu chữ hồng danh, Ngài đã thành tựu niệm Phật tam muội.

Tôi tin tưởng Ngài đã ngộ, Ngài không phải giác ngộ thông thường, chính là trong tông môn đã nói đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, họ vì chúng ta thị hiện là pháp thân Đại Sĩ.

Xứ kim thời kim xứ, cái thời đại này, các Ngài thị hiện đệ tử Phật, làm tấm gương tu hành chứng quả tốt, chúng ta tự than không bằng.

Chúng ta phải học tập với Lão Hòa Thượng Hải Hiền, Lão Hòa Thượng đích thực là tấm gương của chúng ta. Hiện tại chúng ta quay đầu lại vẫn còn kịp.

Cái pháp môn này phải thời gian bao lâu mới có thể tu thành?

Trên Kinh Di Đà nói được rất rõ ràng: Nếu một ngày, nếu hai ngày, nếu ba ngày, nếu bốn ngày, nếu năm ngày, nếu sáu ngày, nếu bảy ngày.

Bảy ngày này là gì?

Sáu phía trước là số tự, bảy phía sau không phải là số tự, là cái gì?

Bạn công phu viên mãn mới gọi là bảy. Pháp Sư Hải Khánh bảy mươi năm niệm Phật, niệm bảy mươi năm vãng sanh, bảy mươi năm đó chính là bảy ngày. Lão Hòa Thượng Hải Hiền một câu Phật hiệu này niệm đến chín mươi hai năm, chín mươi hai năm chính là bảy, chính là viên mãn. Bảy là ý nghĩa viên mãn.

Vì sao nói nó là viên mãn?

Nó là bốn phương, trên, dưới, giữa, bảy là cái ý nghĩa này, cho nên biểu pháp này gọi là viên mãn. Bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, phương Trên, phương Dưới, ngay Giữa. Đến lúc nào công phu của bạn chín muồi thì bạn vãng sanh rồi, đây gọi là bảy.

Cho nên cái đoạn lời nói này của Pháp Sư Đạo Ẩn chính là nói Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, còn tôi đọc Lăng Nghiêm cũng đều là hướng dẫn của Bổn Kinh mà thôi.

Bổn Kinh này chính là: Nhất Đại Tạng giáo chi chỉ quy, Hoa Nghiêm Kinh mạt, Phổ Hiền Đại Sĩ, Thập đại nguyện vương, đạo quy Cực Lạc, thị kỳ minh chứng. Cái này quá rõ ràng rồi, vừa xem liền tường tận. Văn Thù, Phổ Hiền Bồ Tát phát nguyện cầu sanh Thế Giới Cực Lạc, đó là chứng được viên mãn.

Còn trên Hội Lăng Nghiêm trong hai mươi năm viên thông thì Thế Chí, Quán Âm Bồ Tát xếp ở pháp môn đặc biệt. Nếu y theo thứ tự xếp đặt thì là pháp môn thông thường, vì nếu y theo thứ tự thông thường thì Quán Thế Âm Bồ Tát nhĩ căn viên thông, nên ở hai mươi năm viên thông phải nên xếp ở vị thứ hai, vì vị trí thứ nhất là nhãn căn, thứ hai là nhĩ căn. Nhưng Ngài không xếp ở vị thứ hai, mà Ngài xếp vào thứ hai mươi năm sau cùng.

Còn Đại Thế Chí Bồ Tát kiến đại được xếp vào được xếp vào thứ hai mươi bốn trong vị hai mươi năm này, nếu y theo thứ tự thì Ngài phải hoán đổi với Bồ Tát Di Lặc, Ngài phải là ở phía trước Bồ Tát Di Lặc, nhưng trên thực tế thì Bồ Tát Di Lặc hai mươi ba, còn Ngài hai mươi bốn.

Điều này nói rõ không chiếu theo thứ tự, đây là pháp môn đặc biệt, còn chiếu theo thứ tự là pháp môn phổ thông. Còn trong Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát thập nguyện đạo quy Cực Lạc.

Đây chẳng phải là giáo huấn rất rõ ràng rồi sao?

Chúng ta phải nên có thể sâu sắc thể hội được. Trong tư liệu tham khảo của chúng ta có Mười đại nguyện vương ở tờ thứ sáu mươi tám, biên hiệu là một trăm mười bốn.

Mười đại nguyện vương, đây là từ Phật Học Đại Từ Điển ghi chép ra Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh, Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm viết: Ưng tu thập chủng, quảng đại hạnh nguyện, hà đẳng vi thập, nhất giả lễ kính Chư Phật... đây là tu học đại thừa, đặc biệt là tu học Tịnh Độ.

Người cầu vãng sanh Tịnh Độ phải đặc biệt chú ý trong Kinh Vô Lượng Thọ Bản Hội Tập của Hạ Lão, ở phẩm thứ hai là Đức Tuân Phổ Hiền, đây chân thật là phẩm tựa của Kinh. Phẩm tựa Bổn Kinh tổng cộng có ba phẩm Kinh Văn, hai phẩm phía trước là thông tựa, phẩm thứ ba là biệt tựa, chính là phát khởi tựa.

Cho nên trong chân giải nói Hoa Nghiêm, Pháp Hoa là lời tựa của Bổn Kinh, có lý do, không phải tùy tiện nói. Mở Bổn Kinh ra bạn liền có thể thấy được phẩm Đức Tuân Phổ Hiền, là thật không phải là giả. Cho nên Mười đại nguyện vương chúng ta phải học.

Vì sao vậy?

Vì Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mỗi mỗi đều là học thập nguyện Phổ Hiền, Thế Giới Tây Phương Cực Lạc là pháp giới của thập nguyện Phổ Hiền. Phổ Hiền thập nguyện triển khai ra cho nên mới là Thế Giới Cực Lạc.

Nếu bạn hỏi Thế Giới Cực Lạc từ đâu mà có?

Chính thập nguyện này mà ra. Vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc không có ai không tu thập nguyện Phổ Hiền. Hay nói cách khác Thế Giới Cực Lạc là pháp giới của Phổ Hiền. Chúng ta có thể tu học thập nguyện của Phổ Hiền, học được càng nhiều càng tốt, càng tương ưng với Thế Giới Cực Lạc. Nguyện thứ nhất lễ kính Chư Phật.

Chúng ta phải thật làm nếu chúng ta muốn đến Thế Giới Cực Lạc?

Vì người người Thế Giới Cực Lạc đều là lễ kính Chư Phật, không hề có ngoại lệ.

Vậy Chư Phật là ai?

Trên Kinh Hoa Nghiêm Thế Tôn nói với chúng ta: Tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai, ở trong thập pháp giới chỉ có mê ngộ khác nhau.

Đại Sư Thiên Thai nói với chúng ta lục tức Phật, nghĩa là Phật có sáu loại: Loại thứ nhất lý tức Phật, từ trên lý mà nói tất cả chúng sanh đều là Phật. Cho nên Phật nói tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật là từ trên lý mà nói.

Lý là cái gì?

Lý là chân như tự tánh.

Chúng ta đọc qua Pháp Bảo Đàn Kinh, Đàn Kinh mọi người đều rất quen thuộc, Đại Sư Huệ Năng khai ngộ nói ra năm câu, câu sau cùng nói: Nào ngờ tự tánh, năng sanh vạn pháp. Cái tự tánh đó chính là Phật tánh, tự tánh chính là Phật. Tất cả vạn pháp là tự tánh sanh, tự tánh là năng sanh, tất cả vạn pháp là sở sanh, năng sở không hai, năng sở nhất như, năng sanh đã là Phật, sở sanh cũng không ngoại lệ, cũng là Phật.

Trên lý mà nói, bởi vì bạn vốn dĩ là Phật, cho nên bạn có thể thành Phật, chỉ cần bạn đi con đường của Phật, bạn liền sẽ thành Phật.

Thập pháp giới mười con đường đi, mười con đường này, mười loại quả báo, đều là tự tánh sở sanh sở hiện. Từ một niệm bất giác biến thành A lại da, A lại da là vọng tâm, vọng tâm từ chân tâm sanh, vọng không lìa chân.

Thế nhưng chân, vọng tác dụng không như nhau, chân là vô thượng bồ đề, vọng là thập pháp giới y chánh trang nghiêm, không như nhau, vọng là pháp sanh diệt, có sanh có diệt, chân phía trước chúng ta học qua, nó là tánh khởi, nó không phải duyên khởi, nó không sanh không diệt.

Cho nên Đại Sư Huệ Năng nói câu thứ hai: Nào ngờ tự tánh, vốn không sanh diệt, cho nên nó không sanh không diệt.

Chính từ lý tức Phật để nói, tất cả chúng sanh đều là Phật, không chỉ hữu tình chúng sanh là Phật, chúng sanh vô tình là pháp, vạn pháp, cái bàn cái ghế này của chúng ta có phải là Phật không?

Đều là Phật! Động vật là Phật, thực vật là Phật, khoáng vật đều là Phật, không có thứ nào không phải là Phật, chúng ta lễ kính đối tượng là Chư Phật, vậy thì bao gồm thập pháp giới y chánh trang nghiêm.

Y báo chính là núi sông đất đai, bao gồm tất cả thực vật trong đó. Chánh báo đây là nói tất cả chúng sanh, chúng sanh hữu tình, tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

Chúng ta rất cung kính đối với Phật, rất hiếu thuận đối với cha mẹ, chúng ta có thể đem cung kính hiếu thuận này để đối đãi với tất cả người, tất cả sự, tất cả vật hay không?

Vì sao vậy?

Lễ kính Chư Phật trong hạnh Phổ Hiền, đây là điều thứ nhất.

Tu hạnh Phổ Hiền từ chỗ nào mà khởi tu?

Từ lễ kính mà khởi tu.

Vì sao vậy?

Tâm chân thành mà tu ra.

Cho nên chúng ta vào thời xưa dạy trẻ thơ, không phải dạy trẻ nhỏ, mà là dạy trẻ thơ, ai dạy?

Cha mẹ dạy.

Chúng học với ai?

Chúng học với cha mẹ, nếu cha mẹ trẻ thơ này hiếu thuận với cha mẹ họ, thì trẻ nhỏ học được, lớn lên liền sẽ hiếu thuận cha mẹ, không chờ lớn lên, từ nhỏ đến lớn đều biết được hiếu thuận cha mẹ, chúng học được rồi.

Hiện tại con cái bất hiếu, không thể nào trách con cái, nếu bạn trách con cái, con cái quá oan uổng, trách ai?

Trách người làm cha mẹ không dạy chúng cho tốt, cha mẹ không làm trước để dẫn dắt con cái, chính là không ở trước mặt ông bà nội của bé.

Hiện tại trong gia đình nhỏ, có thể cúng dường tấm hình của cha mẹ, chính là tấm hình ông bà của bé, treo ở nơi rõ ràng nhất, sớm tối cúc cung hành lễ ba cái đối với cha mẹ.

Hành lễ cho ai xem?

Cho trẻ nhỏ xem, trẻ nhỏ xem thấy cha mẹ làm mà biết được, cha mẹ ta sáng sớm mỗi ngày đều phải cúc cung cúi chào ông bà ba cái, bạn xem, tâm cung kính của chúng liền sanh khởi.

Ngoài cha mẹ ân đức rất lớn đối với chúng ta ra, cũng không lớn hơn thầy giáo, cho nên đem tấm hình của thầy cùng tấm hình của cha mẹ treo ngang nhau, khiến chính mình vĩnh viễn không quên cảm ân đội đức.

Cha mẹ cùng thầy dạy ta nên người, chúng ta làm sao có thể vong ân phụ nghĩa. Không có người dạy, cha mẹ và thầy của tôi không còn, nhưng hình ảnh còn, hình ảnh của cha tôi không tìm ra, hình ảnh của mẹ vẫn còn, không tìm được thì cúng bài vị, có thể tìm được thì cúng hình ảnh. Đây là giáo hóa chúng sanh.

***